Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2007

Có thể bạn chưa biết -Rider

Rider: Sự hấp dẫn chết người

Rider thực ra chính là Medusa trong truyền thuyết Hi Lạp, là em út trong 3 Gordon - các nữ thần sinh ra từ ước vọng của loài người muốn tạo ra những thần linh lý tưởng. Cả 3 đều có sắc đẹp tuyệt trần, nhưng khác với Stheno và Euryale, Medusa không được ban tặng sự bất tử. Chính điều này làm cô luôn bị các bà chị bắt nạt.

Ghen tức với sự quyến rũ của các Gordon, thần Athena xui khiến những kẻ tôn thờ họ chống lại 3 chị em, khiến họ phải lẩn trốn trong đảo Shapeless. Từ đó Medusa càng trở nên căm ghét loài người, vậy nên cô giết tất cả những ai dám lảng vảng quanh hòn đảo. Sau nhiều năm, sự khát máu của Medusa ngày càng tăng, và các Gordon chỉ còn được biết đến như biểu tượng của sự kinh hoàng. Trái với việc hay bắt nạt Medusa, thực chất Stheno và Euryale rất thương yêu em mình, họ cảm thấy phải chiụ trách nhiệm cho sự điên cuồng của Medusa. Rốt cuộc họ cũng bị cô giết chết. Sau đó, Perseus (con trai của thần Zeus dưới nhân gian, tương tự Hercules - thần Zeus có nhiều con riêng lém :p) với 5 vũ khí thần thánh, tiêu diệt Medusa, kết thúc cuộc đời đau buồn của cô. Sau khi chết, Medusa nhận ra tình yêu của những người chị dành cho mình, do vậy cô trân trọng thời gian họ bên nhau. Chính vì thế cô đã tham gia Holy Grail War để đoạt lấy điều ước tìm lại hạnh phúc cho mình.

Ability:

  • Phòng ngự phép thuật:

Hạng: B

Khả năng vô hiệu hoặc làm giảm hiệu ứng của ma thuật. Ở mức độ này, phép thuật với đẳng cấp gồm 3 câu hoặc ít hơn sẽ bị xóa bỏ, và ngay cả những thần chú mạnh hơn cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Thông thường các Servant thuộc Rider – class không có kỹ năng này.

  • Vật cưỡi:

Hạng: A+

Khả năng điều khiển sinh vật và các phương tiện. Ở mức độ này, cô có thể thuần phục mọi vật cưỡi, bất kể là loài vật hay vật thể, ngay cả các sinh vật được xếp hạng Thần thú (divine beast) . Thứ duy nhất vượt ngoài khả năng của cô là những thứ thuộc chủng tộc của Rồng.

  • Mắt Ma thuật:

Hạng: A+

Năng lực trời phú của một sinh vật, là đôi mắt đặc biệt có sức mạnh ảnh hưởng đến thế giới bên ngoài. Cặp mắt của Rider, Cybele, giữ năng lực hóa đá. Được xếp vào loại Jewel trong số các Noble Color, chúng có khả năng biến bất cứ ai trong tầm nhìn của Rider thành đá bất chấp cô có muốn hay không. Mục tiêu không nhất thiết phải nhìn vào mắt Rider, và cô không thể tự tắt năng lực này. Đối tượng cần một lượng Mana đủ lớn để chống lại hiệu ứng của cặp mắt này. Ở mức độ này, bất kỳ ai có phòng ngự phép thuật dưới hạng B sẽ lập tức bị biến thành đá, và ngay cả những người có thể kháng cự lại nó cũng chịu mất một hạng status.

  • Hành động độc lập:

Hạng: C

Khả năng giúp các Servant tồn tại mà không cần có Master. Với mức độ này, cô có thể tồn tại qua 1 ngày mà không cần giữ bất cứ thỏa ước nào.

  • Gốc gác thần thánh:

Hạng: C-

Đẳng cấp thần linh hiện hữu trong dòng máu của các sinh vật. Bị xếp vào loại yêu quái, Rider gần như mất toàn bộ thần tính của mình.

  • Sức mạnh quái thú:

Hạng: B

Năng lực của quỷ dữ và sinh vật huyền thoại, nâng Sức mạnh lên một hạng trong một thời gian nhất định tùy thuộc vào cấp độ của kỹ năng này. Rider còn có một điều kiện đặc biệt, đó là khi cô sử dụng khả năng này càng lâu thì ngoại hình cô sẽ càng biến đổi trở thành quái vật Gorgon trong thần thoại.

Noble Phantasm:

\"Blood Fort Andromeda\": Ngoại phong ấn-Ngôi đền máu

Hạng: B

Loại: Anti-Fort

Bằng cách sử dụng máu của mình như 1 thành phần nguyên liệu, Rider tạo ra một phong ấn hình mái vòm màu đỏ thẫm xung quanh địch thủ. Tất cả nạn nhân bị bẫy bên trong phong ấn này đều bị hút hết máu và biến thành 1 dung dịch hòa tan, mà sau đó sẽ được Rider hấp thụ thành Mana. Mặc dù rất hiệu quả để chặn đường rút lui của kẻ thù, NP này được dùng chủ yếu với mục đích tích trữ Mana. Sử dụng NP này gây tổn hại đến vòng tuần hoàn Mana trong vùng bị nó ảnh hưởng, do vậy sẽ giới hạn việc sử dụng ma thuật trong vùng này. Andromeda là tên của một cô công chúa - người đã cưới Perseus, con trai thần Zeus và cũng là người tiêu diệt Medusa.

\"Breaker Gorgon\": Tự phong ấn-Ngôi đền bóng tối

Hạng: C-

Loại: Hỗ trợ

Cặp kính mà Rider đeo để che mắt Ma thuật của mình thực chất là một NP, được thiết kế để kiểm soát sức mạnh từ cái nhìn của cô (ai xem thần thoại Hy Lạp cũng biết Medusa nổi tiếng với cái nhìn chết người của mình) . NP này tưởng nhớ các Gorgon, 3 quái vật tà ác trong thần thoại Hy Lạp.

Sau đây là hình Rider sử dụng mắt Ma thuật của mình:

\"Bellerophon\": Yên cương hiệp sỹ

Hạng: A+

Loại: Anti-Fort

Một yên ngựa bằng vàng, chỉ phát huy hiệu quả khi được buộc vào vật cưỡi của Rider, Pegasus - một con ngựa bay trong thần thoại. Khi phối hợp với Bellerophon, tất cả các thuộc tính của Pegasus tăng lên 1 hạng. Những cái vỗ từ cánh của Pegasus có thể tạo ra những đợt sóng xung kích cực mạnh. Sự kết hợp với 1 sinh vật huyền thoại giúp Bellerophon có khả năng tranh danh hiệu NP vĩ đại nhất. Tên của NP này gợi đến hoàng tử Bellerophon, người đã thuần hóa 1 con Pegasus và tiêu diệt quái vật Chimera (lại là thần thoại Hy Lạp =.=) .

Cảnh Rider thi triển Bellerophon khi đấu với Saber:


PS: Hôm nay out sớm tại về coi Fate eps 11-12 :p (Animax dubbing wá siêu, nghe mừ ghiền) .

Original Page: http://en.wikipedia.org/wiki/Rider_%28Fate/stay_night%29

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2007

\"Tag\" ... muộn

....

Thứ Ba, 24 tháng 7, 2007

Có thể bạn chưa biết-Archer (P.2)

Vì phần Noble Phantasm của Archer quá dài nên xin mạn phép chia thành 2 phần (thực tế là để lời cái entry :p) . Sau đây là các NP còn lại:

\"Caladbolg II\": Lưỡi gươm xoắn ốc

Hạng:

Loại: Anti-Unit

Thanh gươm bằng cẩm thạch này được Archer thiết kế dựa trên thanh Caladbolg - một vũ khí huyền thoại của Fergus mac Róich trong thần thoại Ai-len (ai chơi FFX chắc không biết đây là vũ khí của Tidus ^^) . Thường được Archer sử dụng như 1 mũi tên do nó tốn ít Mana. Chính anh đã sửa lại hình dáng của Caladbolg để nó hiệu quả hơn với chức năng mới. Khi được bắn ra, uy lực của nó tương đương một NP hạng \"A\" (cấp độ rất cao-chỉ sau EX :-?) . Anh hùng Celtic Cú Chulainn bị 1 \"lời nguyền xung khắc\" với Caladbolg, do đó khi anh ta quyết đấu với 1 nhân vật trong Ulster Cycle (cái thần thoại ban nãy) sử dụng vũ khí này, Lancer chắc chắn thất bại.

\"Rho Aias\": Bảy vòng tròn bao phủ Thiên đường rực lửa

Hạng:

Loại: Hỗ trợ

Một vòng bảo hộ ma thuật cực kỳ mạnh mẽ, và cũng là NP bảo vệ duy nhất Archer sử dụng. Nguyên bản trước kia là một cái khiên đồng to lớn phủ 7 lớp da bò (vậy thì có gì hay đâu trời o.0) . Khi được kích hoạt, NP này hình thành bảy cánh hoa lăng kính liên tiếp, mỗi cánh gia tăng sức mạnh cho một pháo đài vô hình. Giữa các cổ vật đóng vai trò như NP, Rho Aias nổi tiếng với khả năng kháng cự phi thường chống lại mọi loại giáo (chậc Archer có vẻ là khắc tinh của Lancer rồi :p). Cái khiên nguyên bản từng là vật sở hữu của Telamonian Ajax -một anh hùng trong trường ca Illiad- người từng đấu với Hector thành Troy.

\"Hrunting\": Tiếng hú nơi đồng hoang

Hạng:

Loại: Anti-Unit

Một phi đao đầy răng cưa, được Archer sử dụng trong Fate/hollow ataraxia. Khi được bắn ra, Hrunting tự động tìm hướng nhanh nhất phóng vào mục tiêu trong khi Archer tiếp tục ngắm bắn, và sẽ không dừng lại ngay cả khi bị tránh được, bị đổi hướng hay chặn lại. NP này có thể xuyên thấu trở lực trên đường bay của nó, với sức mạnh đủ làm xuyên thủng 4 lớp Rho Aias. Trong thần thoại Bắc Âu, Hrunting là tên của thanh kiếm phép được trao cho anh hùng Beowulf để chống lại 1 tên khổng lồ 3 đầu.

Original page: http://en.wikipedia.org/wiki/Archer_%28Fate/stay_night%29

Thứ Hai, 23 tháng 7, 2007

Có thể bạn chưa biết-Archer (P.1)

Archer: Xạ thủ bí ẩn

Archer-class là một trường phái tuy không mạnh mẽ như Berserker, không linh hoạt như Rider nhưng sở hữu rất nhiều Noble Phantasm. Đặc biệt, khi xem xét NP của Archer chúng ta sẽ thấy sự tương đồng với kỹ năng của Shirou (Reinforcement, Tracing) , điều này là hiển nhiên vì những ai đã chơi qua game Fate cũng đã biết Archer-Shirou thực ra là 1 người, cái khác giữa 2 người này chỉ là thời gian và quan điểm mà thôi (ngẫm nghĩ lại thấy Archer cũng rất đáng thương, chịu dằn vặt từ những hành động trước kia của mình =.=) .

Ability:

  • Phòng ngự phép thuật:

Hạng: D

Khả năng vô hiệu hoặc làm giảm hiệu ứng của ma thuật. Ở mức độ này, phép thuật được thi triển bằng thần chú gồm 1 đoạn hoặc ít hơn sẽ bị vô hiệu. Hãy nhớ rằng một “đoạn” được tạo thành bởi ít nhất 3 cụm từ. Năng lực này mạnh tương đương với một lá bùa bảo hộ thông thường.

  • Hành động độc lập:

Hạng: B

Khả năng giúp các Servant tồn tại mà không cần có Master. Ở mức độ này, Archer có thể tồn tại qua 2 ngày mà không cần giữ bất cứ thỏa ước nào, đồng thời có thể kéo dài sự hiện hữu của mình thêm một khoảng thời gian nữa ngay cả khi cốt lõi lưu giữ linh hồn anh trên thế giới này đã chịu tổn hại vượt mức cho phép.

  • Tâm nhãn (True):

Hạng: B

Năng lực đưa ra những đánh giá nhanh chóng, chuẩn xác nhờ vào kinh nghiệm và rèn luyện không ngừng. Archer có khả năng phân tích tình huống thật bình tĩnh ngay cả trong lúc chiến đấu, từ đó áp dụng các chiến thuật và kỹ năng phù hợp để đưa cuộc chiến về thế có lợi cho anh. Miễn là còn ít nhất 1% cơ hội chiến thắng, anh vẫn có thể lập ra một kế hoạch nhằm khai khác cơ hội đó.

  • Thần lực thị giác:

Hạng: C

Tăng cường khả năng thị giác. Trong trường hợp này, Archer đạt được nhờ sử dụng phép “Reinforcement” lên mắt mình. Ở mức độ này, anh có thể nhắm bắn chính xác những mục tiêu xa đến 4 km và nhìn rõ cử động của những vật thể di chuyển với tốc độ cực cao.

  • Pháp thuật:

Hạng: C-

Khả năng của từng cá nhân trong việc sử dụng phép thuật. Với hạng này, người nắm giữ chỉ học được căn bản cách dùng ma thuật chính thống.

Dù bản thân anh dường như không am hiểu phép thuật cao cấp, Archer lại là chuyên gia về một nhánh phép thuật thông thường nhưng ít được sử dụng. Anh là một Faker, người có thể tạo ra bản sao từ các đồ vật thông qua việc dò tìm và phản chiếu những hình ảnh trong đầu để hình thành vật thể hiện hữu. Mặc dù phép “Projection” thường không có hiệu quả khi tạo những bảo vật mạnh mẽ, khả năng vô song của Archer trong kỹ thuật này khiến anh có thể biến những vũ khí siêu phàm trong thần thoại từ ảo ảnh vô định trở thành vật chất cụ thể.

Bằng việc hình thành và liên tục duy trì Reality Marble của mình, Archer lưu giữ toàn bộ thông tin về các vũ khí cổ xưa như nguyên tắc cấu thành, tính năng siêu nhiên và thay đổi tác động lên chúng chỉ với một lần nhìn thoáng qua, sau đó định hình ra một phiên bản chuẩn xác đến kinh ngạc. Sản phẩm này không chỉ sở hữu hình dáng và phép thuật của bản gốc, mà còn giữ lại những ký ức bên trong, giúp Archer đọc được chúng và sao chép bất kỳ kỹ năng hay chiêu thức có thể sử dụng bằng vũ khí này. Dù vậy phương pháp này cũng có mặt hạn chế, vì các vũ khí “trace” được thường thấp hơn nguyên bản một hạng, và Archer không thể tái tạo lại những cổ vật được làm từ vật chất không tồn tại trên thế giới này.

Thêm vào đó, qua cách dùng “Alteration”, Archer có thể điều chỉnh những bảo sao anh “trace” được và truyền cho chúng những thuộc tính đặc biệt khác. Tính năng hiệu quả nhất của phương pháp này là việc tạo ra các Broken Phantasm – Noble Phantasm vượt quá năng lượng ma thuật cho phép, khiến chúng bị vỡ ngay sau khi sử dụng, bù lại tăng lực công phá theo cấp số nhân. Trong khi hầu hết Servant đều do dự khi hy sinh vũ khí của mình, kho vũ khí vô hạn của Archer giúp anh thoải mái vận dụng nó, và theo cách này anh thường chuyển biến đao kiếm thành các mũi tên.

Anh cũng thuần thục căn bản của hai phép Alteration và Tracing: Reinforcement; thuật tạm thời tăng cường cấu trúc của vật thể bằng cách thấu hiểu bản chất của chúng, sau đó hoàn thiện những sai sót bằng phép Projection, làm tăng tính năng cơ bản của đối tượng, như sức kháng cự của một bộ giáp hay độ bén của một lưỡi gươm. Một trong những ứng dụng khó nhất của phép này là tăng cường sinh vật, vì ép năng lượng ma thuật vào cơ thể sống khác là một quá trình phức tạp, nên bất cứ sai phạm nào cũng bị cho là sự xâm phạm và bị cơ thể loại bỏ. Archer dùng cách này để nâng cao thể lực của mình, đặc biệt là thị lực, khiến chúng tinh nhạy đến độ trở thành một dạng “mắt thần”.

Archer còn có một cây trường cung bóng bẩy màu đen, được làm bằng hợp chất tổng hợp từ kim loại nhưng mềm dẻo, không tồn tại trong thời đại này. Nó được thiết kế để chịu được sức căng của vũ khí, chẳng hạn như Noble Phantasm, nhờ đó phóng chúng như các mũi tên. Tương tự, giáp che ngực và đôi giày của Archer cũng làm từ cùng một vật liệu, trong khi áo choàng anh khoác trên người là một burial cloth (thánh y - quần áo của các vị thánh) linh thiêng, bảo vệ Archer khỏi những giao chấn tâm linh xung quanh anh.

Là một Counter Guardian, linh hồn phụng sự trái đất và bảo vệ nó khỏi các thảm họa, Archer yếu hơn những Heroic spirit khác về sức mạnh, thể lực, tốc độ … Tuy vậy, anh đã bù đắp khoảng cách ấy bằng năng lực sáng tạo của mình. Ví dụ, trong trận chiến với Lancer, hai thanh đao của anh không ngừng bị đánh bật ra khỏi tay nhưng anh lập tức tạo ngay cái mới. Thêm nữa, trong trận đấu bên trong UBW, bằng cách sử dụng vô số Noble Phantasm anh mô phỏng được, Archer đã giết Berserker đến sáu lần (trong anime là năm lần) .

Noble Phamtasm:

\"Unlimited Blade Works\": Sự sáng tạo
vô hạn

Hạng: E ~ A++

Loại: Hỗ trợ

Reality Marble của Archer, còn được biết đến như \"Unlimited Blade Works\", là một khu vực đặc biệt nằm sâu trong linh hồn người sử dụng, thực chất là một phép thuật cao cấp vô cùng hiếm có. Bên trong nơi này Archer hoàn toàn chiếm ưu thế khi có thể phá vỡ bất cứ quy luật tự nhiên nào. Reality Marble có thể xem như 1 chiến trường cực kỳ lý tưởng của anh - hiện ra với khung cảnh của một cánh đồng rộng lớn và cằn cỗi, khắp nơi rải rác vô số Noble Phantasm (tức vũ khí của các anh hùng) cắm trên mặt đất, tô điểm bằng những bánh răng nguyên khối liên tục xoay chuyển, thêm vào đó là một làn sương mờ ảo nơi chân trời gần như che phủ cả ánh sáng. Chốc chốc đâu đó ánh lên tia lửa do ma sát bốc lên từ đất trông như những bong bóng nhỏ giữa làn nước sục sôi (sặc khúc này khó dịch tệ =.=) .

Với UBW, Archer sở hữu tất cả những nguyên liệu cần thiết để thực hiện phép \"Tracing\", giúp anh tạo ra bất cứ thanh kiếm nào chỉ bằng 1 lần nhìn qua nó. Hơn nữa, Tracing còn giúp anh kế thừa kỹ năng chiến đấu của người từng sử dụng thanh kiếm trong 1 khoảng thời gian nhất định (hay hơn Gate of Babylon của Gil ở chỗ đó ^_^) .Tuy nhiên trí tưởng tượng của con người không thể nào nhận biết hoàn toàn 1 vật thể chỉ với cảm quan, do đó chất lượng của những vũ khí được tạo ra không bao giờ ngang bằng với bản thể nguyên gốc. Gươm, giáo, kích thường được ưu tiên, nhưng Archer vẫn có thể tạo nên các tấm khiên bằng 1 lượng Mana nhiều hơn. Ngoài ra Archer cũng có thể rút những thanh kiếm này ra khỏi Reality Marble và phóng chúng xuống đối thủ như một cơn mưa đao kiếm (tương tự Gate of Babylon) . Hầu hết các NP này là bản sao từ những NP huyền thoại bên trong Gate of Babylon, nhưng cũng có một vài vũ khí do chính Archer tạo nên (sẽ liệt kê bên dưới) .

\"Kanshō - Bakuya\": Gàn Jiàng (干将) và Mò Yé (莫邪)

Hạng: C-

Loại: Anti-Unit

Cặp Kan-đao của Trung Quốc, mỗi thanh tượng trưng lần lượt cho 2 lực lượng đối nghịch Âm-Dương. Chúng có thể được ném như boomerang, nếu 1 thanh đã được ném đi, nó tự động quay trở lại nếu người sử dụng vẫn giữ thanh còn lại. Khi được gia tăng sức mạnh nhờ phép Reinforcement, chúng mở rộng chiều dài gấp đôi và trông như những chiếc lông chim. Dạng này được biết đến như Kanshō và Bakuya Overedge. Đồng thời, từng thanh gươm cung cấp sự bảo vệ hạn chế chống lại những phép thuật khác nhau. Tên của 2 thanh đao này xuất phát từ thời Xuân Thu ở Trung Quốc, khi 1 thợ rèn lão luyện tên Can Tương bị vua nước Ngô ép phải rèn 2 thanh gươm tốt nhất thiên hạ (nếu không sẽ bị xử tử >.<) . Cùng với vợ là Mạc Da, Can Tương đi đến một ngọn núi nơi ông khám phá ra 1 mảnh thiên thạch chứa loại hợp kim đặc biệt. Mặc dù rất cố gắng, ông vẫn không rèn được nó thành hình. Vì sự an nguy của đức lang quân, Mạc Da lao mình vào lò rèn. Chính sự hy sinh của người vợ đã giúp Can Tương tạo hình được khối kim loại. Sản phẩm tạo thành là 1 cặp long phụng đao được đặt tên để tôn kính người thợ rèn vĩ đại cùng hiền thê của mình (Hix sặc mùi phim kiếm hiệp o.0) .

Sorry chỉ có thể viết đến đây, vì nếu viết nữa về nhà sẽ nghe mắng tưng bừng >.<, ngồi đồng 6 tiếng rùi T_T

Original page: http://en.wikipedia.org/wiki/Archer_%28Fate/stay_night%29

Có thể bạn chưa biết-Saber

Chà lâu quá không online !!! Mấy ngày nay thật chán ... toàn ăn với ngủ =.=. Hôm nay mới rảnh được 1 chút xíu bèn bay ra tiệm Net viết cái entry. Như các bạn cũng thấy, background của Fate cực kỳ phức tạp, ngay cả 1 vũ khí cũng có nguồn gốc của riêng nó (các pác ở TYPEMOON có trí tưởng tượng thật phong phú :p), bây giờ mình sẽ viết về mảng Noble Phantasm - phần mà bất cứ người nào chơi Fate cũng khoái.

E hèm ... Hôm trước có post bài Saber nhưng lại quên cho NP vào. Bây giờ edit thêm chắc cũng chưa muộn :-??

Saber: Vị vua của các hiệp sỹ

Ability:

  • Phòng ngự phép thuật:

Hạng: A

Vô hiệu bất cứ ma thuật nào dưới hạng A. Trong thực tế, ngày nay không có pháp sư nào có khả năng làm tổn thương Saber.

  • Vật cưỡi:

Hạng: B (A)

Khả năng điều khiển các vật thể. Cô có thể lái thuần thục hầu hết các loại phương tiện, nhưng không thể điều khiển các sinh linh thần thánh như quái thú (demonic beast) hoặc thần thú (holy beast) . Chỉ trừ trong loạt sự kiện về Fate/Zero, kỹ năng của Saber đạt đến mức độ đủ khả năng lái cả các máy bay hạng nhẹ.

  • Bản năng:

Hạng: A

Khả năng “cảm nhận” những hành động hay phương hướng có lợi nhất cho bản thân trong chiến đấu. Một dạng giác quan thứ 6, được tăng cường đến mức độ tiềm thức. Nó giảm 1/2 những trở ngại trong thị lực và thính lực so với người bình thường.

  • Ma lực bộc phát:

Hạng: A

Kỹ năng chuyển đổi năng lượng ma thuật vào vũ khí hoặc cơ thể, sau đó nâng cao năng lực bản thân bằng cách phóng thích nguồn năng lượng này ngay tức thời. Nói đơn giản, nó giống như một động cơ phản lực của dòng năng lượng ma thuật. Saber áp dụng kỹ năng này trong kiếm thuật, chống đỡ và di chuyển. Nhờ vào nguồn năng lượng cực lớn sẵn có, Saber đấu ngang sức với cả Berserker dù chỉ là một cô gái nhỏ nhắn. Các vũ khí bình thường, tức không mang sự bảo hộ mạnh mẽ từ thần linh sẽ không chịu nổi những cú đánh chứa đầy năng lượng ma thuật của Saber, và bị vỡ nát chỉ với một đòn.

  • Khả năng lãnh đạo:

Hạng: B

Tài năng bẩm sinh để chỉ huy quân đội. Nó gia tăng sức mạnh của một đạo quân trong các trận chiến lớn. Đây là một kỹ năng hiếm, và hạng B đã đủ để dẫn dắt cả một quốc gia.

Noble Phantasm:

\"Invisible Air\": Lá chắn của gió

Hạng: C

Loại: Hỗ trợ

Có thể nói đây là một loại phép thuật hơn là một Noble Phantasm, khi được thi triển sẽ tạo một cột xoáy không khí xung quanh thanh kiếm của Saber, đồng thời ngăn cản sự khúc xạ của ánh sáng, khiến cho nó trở nên vô hình. Kẻ thù sẽ rất khó khăn khi tránh những đường kiếm của Saber bởi họ không thể xác định chiều dài và chiều rộng của thanh gươm là bao nhiêu (vô hình mà :D) . Hơn nữa, lượng không khí bị nén lại có thể được phóng thích dưới dạng 1 cơn lốc cực mạnh (ai vừa xem tập 9 thì sẽ thấy rõ hiệu quả của nó) . Mặc dầu rất hữu dụng trong chiến đấu, mục đích chính của Invisible Air chỉ để che giấu thân phận thật của Saber, vì các Noble Phantasm của cô rất nổi tiếng và dễ dàng bị nhận ra.

\"Excalibur\": Lưỡi gươm chiến thắng

Hạng: A++

Loại: Anti-Fortress

Một thanh gươm thần thánh được tạo nên từ ước vọng của loài người, với nguồn năng lượng quang điện chuyển hóa từ Mana chảy khắp lưỡi kiếm. Khi năng lượng này được phóng thích, nó tạo ra những tia sáng chói lòa, chứa đựng sức mạnh có thể khiến cả 1 đội quân tan biến :0 . NP này được đặt tên theo thanh kiếm huyền thoại của vua Arthur, được Viviane - Thần Hồ ban tặng.

\"Avalon\": Mộng tưởng vĩnh hằng

Hạng: EX

Loại: Hỗ trợ

Vỏ kiếm thanh Excalibur, được biết đến với khả năng mang lại sự trường sinh bất tử. Khi được sử dụng như NP, Avalon tan biến thành vô số phân tử và đưa chủ nhân vào trong 1 miền đất thanh bình, nơi không một tác động của bất cứ thế giới nào có thể chạm đến. Theo cách này, ta có thể hiểu Avalon giống như 1 \"pháo đài xách tay\" vậy. Avalon vượt xa thậm chí cả những phép thuật bậc cao nhất, và chỉ có thể so sánh như \"Ma thuật đúng nghĩa\" (True Magic). Tên Avalon nhằm chỉ 1 hòn đảo trong truyền thuyết dân gian Anh, được cho là nơi an nghỉ cuối cùng của vua Arthur.

Original page: http://en.wikipedia.org/wiki/Saber_%28Fate/stay_night%29

Thứ Bảy, 14 tháng 7, 2007

Khắc tinh của Saber

Gilgamesh:

Một Servant thuộc lớp Archer-class, tính tình ích kỷ, kiêu ngạo và đầy bí ẩn. Từng tham gia Holy Grail War 10 năm trước, giờ đây cùng với Kotomine Kirei thực hiện âm mưu ngầm do họ vạch ra trong Holy Grail War lần này.

Với cách ăn nói vô cùng kiêu ngạo và ngang tàng của một Hero – King of Ancient Uruk, ở cuộc chiến Holy Grail War 10 năm về trước, Gilgamesh đã cầu hôn Saber (chắc chắn với một giọng điệu sặc mùi chiếm hữu nô lệ theo kiểu “Người phụ nữ đó thuộc về ta, Đức Vua này” như anh ta vẫn thường nói) , và đương nhiên anh nhận được một nhát kiếm của Saber – Arthur king cùng với lời từ chối.

Gilgamesh hầu như chưa từng nghi ngờ gì về việc sẽ chiếm được Saber dù sớm hay muộn (tiền án của Gilgamesh về việc chiếm đoạt phụ nữ cũng từng được nghe qua ) , nhưng có lẽ lần này vị Hero – King hầu như chưa bao giờ thất bại trong việc chiếm lấy một thứ gì trên đời đã gặp một ngoại lệ đầu tiên trong đời. Dù sao cuối cùng anh ta cũng biết cách bày tỏ tình cảm theo một kiểu romantic hơn (các boy thời nay cũng nên nhìn vào tấm gương của anh ta mà lựa lời tỏ tình hợp thời trang 1 chút, lạc hậu tư tưởng quá coi chừng lâm vào bi kịch đáng buồn của tiền nhân ....) .




“ Ta hận ngươi nhiều lắm, người phụ nữ kia

Dám cự tuyệt ta đến cùng

Nhưng ta sẽ tha thứ cho ngươi.

Một thứ tuyệt đẹp bởi vì ta không thể có được chúng.

Tạm biệt ... vì vua của các hiệp sĩ.”

Ability:

  • Phòng ngự phép thuật:

Hạng: E (C)

Khả năng vô hiệu hoặc làm giảm hiệu ứng của ma thuật. Riêng Gil không thể vô hiệu phép thuật. Tuy nhiên trong cuộc chiến lần 4, trước khi bị chất độc trong Chén Thánh nhiễm vào người, anh ta có thể kháng cự lại phép thuật với thần chú từ khoảng hai đoạn hoặc ít hơn.

  • Hành động độc lập:

Hạng: A+ (A)

Khả năng giúp các Servant tồn tại mà không cần có Master. Kể từ khi bị biến thành một Servant ngoại lai do tác động của Chén Thánh, anh ta không còn phải nhờ đến mana từ Master để duy trì sự hiện hữu của mình trong thế giới này. Thay vào đó, Gilgamesh phải sống bằng sinh lực của con người, đặc biệt là trẻ em, để duy trì cơ thể. Ngay cả trước khi bị chuyển hóa, anh ta đã sở hữu một lượng lớn khả năng hành động độc lập, trở thành Servant hoàn hảo trong việc chiến đấu mà không cần sự hỗ trợ từ Master, mặc dù vẫn phải được cung cấp thêm mana để sử dụng Noble Phantasm đến mức tối đa.

  • Quy luật vàng:

Hạng: A

Xuyên suốt con đường của lịch sử cũng như thần thoại, những cá nhân được ban tặng may mắn lớn lao, kho báu chất chồng không đếm xuể đều được xác định là những người sở hữu Quy Luật Vàng (Golden Rule) . Trong số họ, Gil là người duy nhất đứng trên ngai vị của sự giàu sang tột đỉnh, nhờ đó anh luôn có đủ của cải để phung phí vào bất cứ thứ gì anh muốn trong bất kỳ thời đại nào anh được gọi lên.

  • Khả năng lãnh đạo:

Hạng: A+

Tài năng bẩm sinh để chỉ huy quân đội. Như để bổ sung cho tiền tài của vị vua, Gilgamesh cũng sở hữu thiên bẩm cao sang nhất. Với khả năng đáng kinh ngạc này, anh ta có thể tiếp thêm sinh khí và chỉ đạo mọi đội quân ở bất cứ kích cỡ nào. Gil truyền cho họ một niềm tự hào cũng như lòng tôn kính đối với anh và mục tiêu của anh đến nỗi hiệu quả của họ trong trận đánh tăng thêm đáng kể.

  • Gốc gác thần thánh:

Hạng: B (A+)

Đẳng cấp của thần linh hiện hữu trong dòng máu của các sinh vật. Rất nhiều sức mạnh của Gilgamesh bắt nguồn từ huyết thống. Trong vô vàn hình tượng thần thoại trích từ lịch sử nhân loại, anh ta là người sở hữu gốc gác cao quý nhất, khi có đến 2/3 huyết thống của thần linh. Tuy nhiên, vì những hành động thách thức và ngạo mạn trong cuộc đời trước, cũng như sự bất kính với các vị thần chủ chốt, khiến cho Gil bị nhiều thần linh khinh miệt, và để chịu trừng phạt cho hành động của mình, thần tính của Gil bị giảm đến cả một bậc.

Ngoài ra Gilgamesh còn được biết đến với khả năng sử dụng rất nhiều Noble Phantasm, mặc dù trong số đó không có chiêu nào tiết lộ về danh tánh của Gil cả.

Noble Phantasm:

"Gate of Babylon": Kho báu vương triều
Hạng: E ~ A++
Loại: Anti-Army

Một thanh gươm nhỏ đóng vai trò như chìa khóa, cho phép Gilgamesh kết nối vào kho tàng khổng lồ của mình ở ngay chính trung tâm thành phố Babylon cổ xưa, bên trong là vô số vũ khí được thu thập vào lúc đỉnh cao của vương triều Uruk. Gilgamesh có thể bắn các vũ khí này hoặc phóng chúng ra như tên lửa. Các cổ vật này sẽ biến trở lại vào kho tàng sau 1 khoảng thời gian nào đó. Bởi vì không quen sử dụng các vũ khí này, Gilgamesh đơn thuần chỉ bắn chúng ra như những viên đạn. Chính Noble Phantasm này đã ấn định Gilgamesh là 1 Archer-class Servant.

"Enuma Elish - Ea": Tinh tú sáng tạo chia rẽ Đất-Trời

Hạng: EX

Loại: Anti-World

Một lưỡi đao chạm khắc những ký tự ma thuật màu đỏ thẫm viết bằng ngôn ngữ Sumer. Với nguồn năng lượng lớn hơn nhiều so với thanh Excalibur của Saber, sự xoay chuyển của 3 lưỡi đao từ thanh Ea nén hút toàn bộ không khí xung quanh, phóng thích một vụ nổ rung chuyển cả đất trời. Vì chất liệu tạo ra Ea không có ở thế giới phàm trần, nên nó không thể được tạo ra bằng UBW của Shirou. Đây là Noble Phantasm mạnh nhất trong khả năng của Gilgamesh. Cái tên Enuma Elish là để ám chỉ anh hùng ca về sự sáng tạo ra Babylon, và Ea là tên của thần nước bảo hộ nơi này.

"Enkidu": Sợi xích thiên đường

Hạng:

Loại: Anti-Unit

Một trong những thánh tích Gil từng sử dụng trong cuộc đời thực của mình. Vũ khí này được rèn chuyên dùng để trói thần linh, do vậy nó giảm đi rất nhiều tác dụng khi dùng với địch thủ có ít hoặc không có thần tính. Mặc dù không phải là một Noble Phantasm thực thụ, Endiku lại là vũ khí mà Gil tin tưởng nhất. Được lấy tên để tưởng nhớ bạn cũ của Gil (Endiku), và là sợi xích trói Bò Thần trong truyền thuyết Babylon.

"Merodach": Cội nguồn tội lỗi

Hạng:

Loại: Anti-Unit

Một thanh kiếm tuy không tô điểm nhưng vẫn rực sáng, đồng thời chứa đựng sức mạnh ma thuật rất lớn. Đây là thanh kiếm gốc tạo nên thanh gươm tà ác lừng danh Gram trong thần thọai Bắc Âu, cũng được biết đến với 2 cái tên Balmung và Nothung. Tiếp đó, Caliburn -thanh kiếm vàng được vua Arthur rút ra khỏi một phiến đá- lại được chế tạo từ 1 phần sơ đồ của thanh Gram. Mặc dù không nổi danh như 2 đàn em của mình, sức mạnh của Merodach vượt xa cả Gram và Caliburn. Cái tên của thanh kiếm này để tôn vinh vị thần chủ của người Sumer cổ, và cũng là thần bảo hộ cho Babylon - Merodach.

"Durendal":

Hạng:

Loại: Anti-Unit

Thanh thánh kiếm luôn tỏa ánh sánh lập lòe, được 3 phép màu ểm bùa, khiến cho nó không ngừng tỏa sáng dẫu cho Mana của chủ nhân đã cạn kiệt. Truyền thuyết xưa kể rằng Durandal không thể bị phá hủy, và nó từng được Hector thành Troy trong trường ca Illiad của Homer sử dụng. Sau này trở nên nổi tiếng như là vũ khí mà vua La Mã Charlemagne -người nhận thanh kiếm này từ 1 thiên thần- trao tặng cho vị hiệp sỹ trứ danh Roland.

Servant Status:

Chủ nhân: Kirei Kotomine Tokiomi Tōsaka Giới tính: Nam Màu ưu thích: Vàng kim
Khuynh hướng: Ác Thiện Chiều cao: 182 cm Sở trường: Giàu có
Noble Phantasm: EX EX Cân nặng: 68 kg Sở thích: Thích chính mình, quyền lực
Sức mạnh: B B Phòng ngự phép thuật: E (C) Ko thích: Chính mình, rắn
Sức bền: C B Hành động độc lập: A+ (A) Khắc tinh: Archer
Nhanh nhẹn: C B Quy luật Vàng: A
Ma lực: B A Khả năng lãnh đạo: A+
May mắn: A A Gốc gác thần thánh: B (A+)

Nguồn: yevon + Wiki

Thứ Ba, 10 tháng 7, 2007

Chết rồi bị tag làm sao đây???

Lần đầu tiên có người hỏi 7 điều về mình , không biết là nên buồn hay nên vui nữa , thôi thì năng khiếu làm văn của em có hạn ( hồi học PT tòan dưới TB ) , đành viết được nhiu đây thui :

I. Là con út trong gia đình , hiện đang sống với ba mẹ và 2 anh . Làm em út thiệt chán vì lúc nào mọi người cũng coi mình như con nít vậy ...

II. Đang học Đại học Văn Lang năm thứ nhất , tuy đây ko phải ngôi trường mình mong muốn nhưng vẫn cảm thấy hạnh phúc vì gặp được bạn bè , thầy cô , và trên hết là sử dụng được khả năng Anh ngữ của mình (em học ngành Tiếng Anh ... )

III.Thích chơi game , xem anime và đọc truyện , ngồi đồng trên cái com-pu-tờ không thua gì thằng Kynde ( coi 30 tập anime 1 ngày chưa ăn thua gì ) , bữa nào rảnh anh em mình thi đấu xem ai lỳ hơn , ok? )

IV. Bạn bè , đặc biệt là bạn thân ko nhìu , chắc là do ít tiếp xúc với thế giới bên ngòai (sống nội tâm ...) , ko thích nói chuyện phiếm mà lại ngại làm quen với người khác .

V.Làm bạn còn khó lấy gì có được tình yêu ! Nói chung vẫn đang chờ đợi "nửa kia của mình" - ko biết có không nữa

VI. Dạo này đang tập từ bỏ thói quen nghiện game cố hữu của mình , duy có cái anime chắc ko bỏ được

VII. Mơ ước làm được điều gì đó lớn lao trong cuộc đời mình , chắc là do chán cái cảnh sống vô vị tẻ nhạt này rùi ,nhưng dù sao đó cũng là chuyện tương lai , mai này hẵng tính ...

Thiệt là bực mình hôm nay việc bù đầu mà còn bị chúng nó tag , anh nhất định phải trả lễ mới hả

1. Tag lại thèng Kynde vì hại anh mày , viết thêm 7 điều nữa đi em

2.Chọc thằng Đức 1 cái cho bõ ghét

3. tag cha Quân để thằng chả ghi thêm cái entry nữa (Cha Quân lười wá lâu rùi chẳng ghi gì sất)

4.Tag thằng Rồng mập béo ú vì đi tag tui

5.Tag anh Tuấn Anh vì anh viết blog hay wá , ghi cho đàn em vài dòng đọc chơi

6. zZKittychanZz cũng dính tag vì là bạn mới wen

7. Đang thiếu người để tag .... thôi thì tag đại cha Knight cho chả ghi lần 2

PS: em rất ít online nên có tag em nữa thì ráng chờ đến Trung thu năm ... 2010

..... Chuồn lẹ ....

Thứ Bảy, 7 tháng 7, 2007

The Seven Servants

DANH SÁCH CÁC SERVANT :

Saber :



Được xem là class mạnh nhất trong các class, nhưng xui rủi thay, lần này Saber – class lại được summon bởi 1 tay .... gà mờ chính hiệu. Chính vì lý do đó, Saber yếu đi rất nhiều so với thực lực của cô. Không được tiếp mana (vì Shirou không có khả năng đó) , sức mạnh bị giảm đi đáng kể (do Master yếu kém) , Saber phải chiến đấu vô cùng chật vật với các Servant khác. Thêm vào đó, với tiêu chí “nhất quyết không giết ai” của Shirou, Saber càng bị vướng tay chân, khiến việc chiến đấu đã khó càng thêm khó.

Bản thân Saber ban đầu rất bực mình với Master của mình, một người luôn cản trở cô chiến đấu, luôn liều mạng chiến đấu một mình với Servant của địch dù chắc chắn mười mươi mình sẽ thua. Tuy vậy, thời gian trôi qua, cùng chiến đấu bên cạnh Shirou, Saber dần dần nảy sinh tình cảm với cậu.

Archer :




Lai lịch ? Không biết
Tên thật ? Không biết
Archer–class mà sao hầu như toàn giao chiến bằng kiếm ? Không rõ.
Lai lịch Archer mãi mãi là 1 điều bí ẩn trong anime. Rin và Shirou mãi mãi không thể đoán ra rốt cuộc anh là ai. Ngay từ vài lần gặp gỡ đầu tiên, anh đã thể hiện rõ thái độ không mấy thiện cảm của mình với Shirou, thường nói với Shirou những câu mỉa mai đầy ẩn ý, và chả lấy gì làm lo lắng khi biết Shirou bị Master khác bắt cóc cả ( “mặc kệ hắn” - anh chỉ đáp cộc lốc như thế) .



Khả năng chiến đấu của Archer cũng như lai lịch của anh, đều là 1 bí ẩn. Ta không khỏi thắc mắc khi 1 Archer–class mà hầu như chỉ sử dụng đao kiếm để chiến đấu. Khả năng chiến đấu của Archer ta thấy trong anime cũng có vẻ chỉ ở mức thường thường bậc trung, nhưng vào những phút cuối cùng trước khi hy sinh, Archer lại chiến đấu vô cùng dũng mãnh với những chiêu thức, vũ khí rất lạ.



Archer hy sinh khi liều mình ở lại chiến đấu với Berserker để cầm chân cho Shirou, Saber và Rin chạy thoát. Nhưng những gì anh phát huy trong trận chiến cuối cùng đó khiến cho Illya phải bàng hoàng khi anh giết chết Berserker đến 5 lần.

\"I am the bone of my sword.
Steel is my body, and fire is my blood.
I have created over a thousand blades.
Unknown to death.
Nor known to life.
Have withstood pain to create many weapons.
Yet, those hands will never hold anything.
So as I pray, \"Unlimited Blade Works.\"

Câu sấm (sấm, thần chú, hay cái gì đại loại thế) mà Archer đọc vào những phút cuối cùng như một hé mở nhỏ về cuộc đời anh, lại một số phận buồn thảm như bao số phận khác ( ??? )


Servant Status:

Chủ nhân: Rin Tōsaka Giới tính: Nam Màu ưa thích: Đỏ
Khuynh hướng: Trung lập Chiều cao: 187 cm Sở trường: Sửa chữa, quản gia
Noble Phantasm: N/A Cân nặng: 78 kg Sở thích: Làm việc nhà, lời lẽ tâng bốc
Sức mạnh: D Phòng ngự phép thuật: D Ko thích: Chủ nghĩa anh hùng
Sức bền: C Hành động độc lập: B Khắc tinh: Rin Tōsaka, Sakura Matō, Illyasviel von Einzbern, Gilgamesh, Lancer
Nhanh nhẹn: C Khả năng thị giác: C
Ma lực: B Pháp thuật: C-
May mắn: E Tâm nhãn (True): B

Rider :

Khá trầm tĩnh và lạnh lùng, Rider gây ấn tượng với người xem bởi các ăn mặc khá là ... và một tấm bịt mắt đầy vẻ ... lập dị. Lai lịch của Rider là 1 điều bí ẩn trong anime, không ai biết cô thật sự là ai. Rider chiến đấu bằng 1 cặp dùi sắt nối với nhau bằng 1 đoạn xích rất dài, giúp cô có thể tấn công từ xa. Ngoài ra, cô cũng là chủ nhân của ngựa thần Pegasus. Cô là Servant đầu tiên Shirou thực sự đương đầu trong cuộc chiến. Cô thường hay ẩn nấp chờ cơ hội rồi tấn công bất ngờ mục tiêu, hoặc dụ đối phương vào những nơi địa hình thuận lợi cho cô để tiêu diệt họ. Những lúc như thế, trông cô lại giống Spider hơn là Rider.

Do Shinji không thể cung cấp mana cho Servant của mình, Rider buộc phải hấp thu mana từ những người dân trong thành phố, cô là người đã gây ra thảm họa trong trường học khi giăng kết giới để hút linh hồn họ. Nói chung, trong anime, hình ảnh Rider được khắc họa với đầy đủ tính cách đặc trưng của 1 nhân vật phản diện: lạnh lùng, thủ đoạn, hơi tàn bạo, ... thậm chí cô cũng không thèm bảo vệ Master của mình.

Servant Status:

Chủ nhân: Shinji Matō Sakura Matō Giới tính: Nữ Màu ưu thích: Tím
Khuynh hướng: Ác Thiện Chiều cao: 172 cm Sở trường: Cưỡi ngựa, nhào lộn, rình rập
Noble Phantasm: A+ A+ Cân nặng: 57 kg Sở thích: Rượu mạnh, đọc sách, những con rắn
Sức mạnh: C B Phòng ngự phép thuật: B Ko thích: Gương, đo chiều cao
Sức bền: E D Vật cưỡi: A+ Khắc tinh: Saber, Sōichirō Kuzuki, Assassin
Nhanh nhẹn: B A Mắt ma thuật: A+ Vòng ngực: 88 cm
Ma lực: B B Hành động độc
lập:
C Vòng eo: 56 cm
May mắn: D E Gốc gác thần thánh: E- Vòng hông: 84 cm



Sức mạnh quái thú: B

Berserker :



Một thân hình lực sĩ mình đồng da sắt, với chiếc rìu đá to tướng trong tay, sẵn ràng biến bắt cứ ai thành tương tàu ngay tức khắc, hầu như hoàn toàn không biết nói gì ngoài những tiếng gầm gừ như loài dã thú,... Berserker được khắc họa đầy đủ chi tiết như 1 quái vật thực thụ, nhưng không ai ngờ được đó chính là người anh hùng Hercules với 12 kỳ công lừng lẫy trong thần thoại Hy Lạp.



Ông là một đối thủ rất mạnh của Shirou – Saber. Trong lần giao đấu đầu tiên, ông chém Saber trọng thương, đánh Shirou gần như thoi thóp, và có lẽ đã giết cả 2 người họ nếu Illya không ra lệnh ngừng tay. Tuy Berserker không hề biết tý gì về chiến thuật nhưng sức mạnh của ông thì không ai dám nghi ngờ nữa. Thêm vào đó, Berserker có một lợi thế mà không Servant nào khác có được: ông chỉ bị hạ thực sự khi bị đối phương giết liên tục 12 lần. (1 lần thôi cũng là đổ mồ hôi rồi) . Với tất cả những điều đó, Berserker cùng với Illya là một nỗi kinh hoàng cho Shirou – Saber (hình như mình nói hơi quá) .

Servant Status:

Chủ nhân: Illyasviel von Einzbern Giới tính: Nam Màu ưa thích: Màu đồng
Khuynh hướng:: Điên khùng Chiều cao: 253 cm Sở trường: Ko có
Noble Phantasm: B Cân nặng: 311 kg Sở thích: Ko có
Sức mạnh: A+ Mad Enhancement: B Ko thích: Ko có
Sức bền: A Tiếp tục chiến đấu: A Khắc tinh: Gilgamesh
Nhanh nhẹn: A Dũng cảm: A+
Ma lực: A Gốc gác thần thánh : A
May mắn: B Tâm nhãn (Fake): B


Caster :



Quá khứ của Caster cũng là một bí ẩn được nhắc tới rất mơ hồ trong anime, có vẻ cô là nạn nhân của một mối tình tan vỡ ( ?!! giả ngu ta ?) . Được summon để tham gia Holy Grail War, nhưng vì một vài lý do không được nhắc đến, cô đã giết Master summon mình rồi bỏ trốn. Không được tiếp mana, Caster dần dần kiệt sức rồi ngã gục. May mắn sao, trong lúc hấp hối dưới cơn mưa tầm tã bên ngoài cổng ngôi đền Ryuudouji, cô đã được Souichirou cứu vớt. Cảm kích trước hành động đó, cô đã nhận ông là Master của mình.

“Tôi không thể để ngài chết được...”



Do Souichirou cũng như Shinji, không hề có khả năng phép thuật để cung cấp mana cho Servant, Caster cũng phải tấn công người dân trong thành phố để cướp linh hồn của họ bổ sung cho mình. Tình cảm giữa Caster và Master của cô nảy nở âm thầm nhưng mạnh mẽ. Nhưng rồi ....


Servant Status:

Chủ nhân: Sōichirō Kuzuki Giới tính: Nữ Màu ưa thích: Tím
Khuynh hướng: Ác Chiều cao: 163 cm Sở trường: Âm mưu, thêu thùa
Noble Phantasm: C Cân nặng: 51 kg Sở thích: Đàn ông trầm lặng chân thành, con gái bận đồ đáng yêu
Sức mạnh: E Tạo dựng lãnh địa: A Ko thích: Đàn ông đểu cáng
Sức bền: D Tạo đồ vật: A Khắc tinh: Berserker
Nhanh nhẹn: C Thần chú tốc độ cao: A Vòng ngực: 82 cm
Ma lực: A+

Vòng eo: 57cm
May mắn: B

Vòng hông 84 cm

Assassin :



Anh được Caster summon về để làm nhiện vụ canh giữ cổng vào ngôi đền Ryuudouji, chống lại sự xâm nhập của các Servant khác. Trái với cách hành xử thông thường của các Servant – luôn giữ kín tên tuổi vì sợ để lộ ra yếu điễm của mình – Assassin không ngần ngại xưng tên với kẻ thù trước khi giao chiến: anh chính là tay kiếm huyền thoại Sasaki Kojirou trong truyền thuyết Nhật Bản.

Quá khứ của Assassin cũng chẳng có vẻ gì là tươi sáng theo lời anh kể (nói đúng hơn, anh không hề có cái gọi là “ quá khứ “) . Sasaki Kojirou thực sự không hề tồn tại, đó chỉ là thứ tồn tại trong trí óc và những câu chuyện truyền miệng của con người từ đời này sang đời khác, và linh hồn Assassin – một kiếm sĩ vô danh từng bị mọi người nhận lầm là Sasaki Kojirou – đã bị biến thành Kojirou, mất đi toàn bộ ký ức về cuộc đời mình và tồn tại chỉ như một thứ ảo ảnh được tạo ra để thể hiện ý thức của nhân loại qua nhiều thế hệ đối với một Kojirou không - hề - có - thực mà thôi. Như Assassin đã nói :


\"Ta không có nơi để quay về, cũng chẳng có ước mơ để thực hiện\"

Assassin không quan tâm gì lắm đến Holy Grail War hay mệnh lệnh Caster đưa ra, với cách nghĩ thuần chất samurai xứ mặt trời mọc, anh chỉ có một mong muốn là được chiến đấu với một đối thủ mạnh. Điều anh mong muốn đã trở thành hiện thực, trong đêm trước ngày tan biến, anh đã được giao chiến với một trong những tay kiếm số một trong truyền thuyết nhân loại: Saber – Arthur king.


Servant Status:

Chủ nhân: Caster Giới tính: Nam Màu yêu thích: Xanh Cobalt
Khuynh hướng: Ác (Trung tính) Chiều cao: 176 cm Sở trường: Kiếm thuật
Noble Phantasm: N/A Cân nặng: 63 kg Sở thích: Vẻ đẹp tự nhiên
Sức mạnh: C Che giấu hiện diện: D Ko thích: Ko có
Sức bền: E Thủy tinh hóa: B+ Khắc tinh: Zōken Matō, Sakura Matō
Nhanh nhẹn: A+ Trái tim hòa hợp: B
Ma lực: E Tâm nhãn (Fake): A
May mắn: A

Lancer :



Khá hiếu chiến và kiêu ngạo, Lancer là người đã khiến Shirou bị lôi vào cuộc chiến Holy Grail War khi ra sức truy giết anh để bịt đầu mối, nhưng anh bị bất ngờ khi phải giao chiến với Servant Saber mà Shirou vô tình summon về. Trong trận đấu ngắn đó, Lancer để lộ lai lịch thật của mình qua vũ khí anh sử dụng. Anh chính là người anh hùng Ireland: Cú Chulainn với ngọn giáo huyền thoại Gáe Bolg.

Master thật của Lancer đã bị Kotomine giết chết để tước lấy quyền điều khiển anh. Dưới chỉ thị của Kotomine, Lancer đi do thám trong thành phố để xác định các Servant và Master khác. Sau đó, anh biết mất đâu không ai biết rồi xuất hiện lại vào khoảng cuối bộ anime. Tỏ ra không ưa hành động của Kotomine, Lancer trở giáo sang tấn công, cầm chân Gilgamesh để Shirou và Saber chạy thoát.


\"đừng có lầm, ta không chiến đấu vì 2 người đâu. Ta chỉ làm theo nguyên tắc của mình\"


Servant Status:

Chủ nhân: Kotomine Kirei Giới tính: Nam Màu ưu thích: Xanh da trời
Khuynh hướng: Trung lập Chiều cao: 185 cm Sở trường: Lặn, câu cá, leo núi
Noble Phantasm: B Cân nặng: 70 kg Sở thích: Phụ nữ quyết đoán, lời hứa buồn cười
Sức mạnh: B Phòng ngự phép thuật: B Ko thích: Xảo quyệt, phản phúc
Sức bền: C Tiếp tục chiến đấu: A Khắc tinh: Gilgamesh, Archer
Nhanh nhẹn: A Khả năng thoái lui: C Chống cung: B
Ma lực: C Gốc gác thần thánh: B

May mắn: E Đá ma thuật: B

... Oh man! Viết xong muốn xỉu, lần này xin cám ơn bài viết cực hay của pác yevon, em chỉ xin mạo muội edit thêm cái table. Kỳ tới: Khắc tinh của Saber

Thứ Tư, 4 tháng 7, 2007

Tản mạn 1 tẹo về Saber

Servant Status:

Chủ nhân: Shirō Emiya Rin Tōsaka Sakura Matō Kiritsugu Emiya Giới tính: Nữ Màu ưa thích: Xanh da trời
Khuynh hướng: Thiện Thiện Ác Thiện Chiều cao: 154 cm Sở trường: Thể thao, đánh bạc
Noble Phantasm: C A++ A++ A++ Cân nặng: 42 kg Sở thích: Ăn ngon, sư tử nhồi bông
Sức mạnh: B A A B Phòng ngự phép thuật: A Ko thích: Bữa ăn tệ, trang phục kiểu cách, người già trụy lạc
Sức bền: C B A A Vật cưỡi: B Khắc tinh: Gilgamesh
Nhanh nhẹn: C B D A Bản năng: A Vòng ngực: 73 cm
Ma lực: B A A++ A Ma lực bộc phát: A Vòng eo: 53 cm
May mắn: B A+ C D Khả năng lãnh đạo: B Vòng hông: 76 cm

Ngày sinh: 7/7 Nhóm máu: O

Cái table này có cả phần trong game FSN, ai không chơi game cũng xem tạm cho biết vậy. (98% dịch, 2% phăng :p)

True Identity :

Cô chính là Arthur – king trong truyền thuyết.



Không giống như những gì truyền thuyết kể lại, Arthur thực ra là một cô gái. Sống trong thời đại Anh quốc đang trong thời loạn lạc, với hoài bão to lớn, cô đã cải trang thành nam, tự nguyện rút thanh gươm Caliburn ra khỏi đá, đón nhận lấy sứ mệnh cứu nước Anh khỏi sự diệt vong. Người dân, binh lính dưới sự lãnh đạo của Arthur xem cô như một vị thánh sống, một chiến binh không bao giờ thất bại trong bất cứ trận chiến nào.



Nhưng rồi, “lòng dạ con người dễ bị làm hư hỏng” , thời gian trôi qua, dân chúng và ngay cả các đồng đội bắt đầu bất mãn với Arthur vì đủ thứ lý do mà họ có thể tìm ra được. Và kết cục khủng khiếp đã đến như một phần thưởng cay đắng dành cho vị vua đáng thương giàu lòng nhiệt huyết ấy: cô bị phản bội bởi chính đứa con trai duy nhất của mình, Camelot hoàn toàn sụp đổ, nước Anh bị quân Saxon xâm lược. Arthur qua đời trong cảnh đơn độc giữa cánh rừng già, mang theo trong lòng bao hối hận và dằn vặt bởi sự bất lực của bản thân. Cô đã trở thành 1 heroic spirit, tham gia Holy Grail War với mong muốn chiến thắng cuộc chiến chỉ để thực hiện một điều ước: Mong sao cô chưa từng bao giờ trở thành vua và nước Anh sẽ được một người xứng đáng hơn cô dẫn dắt.



Thảm kịch của Arthur phải chăng là một lời cảnh báo cho những lớp người đi sau đang ấp ủ ước mơ cứu vớt con người, mà Shirou là một trong số đó ????

Vũ khí trang bị của Saber :

Excalibur




Avalon






Caliburn



Nguồn: Wikipedia + bài viết của yevon (accvietnam)