Thứ Hai, 28 tháng 7, 2008

Novel Fate/Zero: Act 3 (P.1)

Hồi 3:

162:26:39



Thành phố Fuyuki, quận Shinto

Khu dân cư nằm ở bờ phía đông con sông Miongawa được xây dựng trên một vùng đất từng một thời hoang phế; tuy không nằm trong lịch sử lâu đời của quận Miyama, nhưng điểm nhấn của nó là dự án quy hoạch rất lớn từ chính phủ nhằm tạo nên một vùng kinh tế hiện đại giữa miền đất già cỗi này.

Hạ tầng kiến trúc trong khu vực chỉ mới thực hiện được 40%, nhưng công viên và phố mua sắm trước sân ga đã hoàn tất; dự kiến trong tương lai của Shinto sẽ là một nơi trù phú, hoa lệ và trong lành, hòa hợp đến từng cá thể. Tòa thị chính cũng từng bước được dời sang Shinto, chuyển mình với bê tông, sắt thép và các tấm kính, chỉ nay mai sẽ thay thế toàn bộ hoạt động chính quyền ở Miyama.

Ngay cả trong ngày lễ nghỉ nơi đây vẫn luôn tấp nập. Giữa dòng người liên hồi qua lại, co ro trước ngọn gió phương bắc, Emiya Kiritsugu như tan biến vào không trung, chẳng để lại vết tích nào.

Với trang phục phai màu và hành lý gọn nhẹ, vẻ ngoài nhếch nhách của Kiritsugu trông chẳng giống một người vừa nhập cư từ nước ngoài cả. Thực ra, ông đã như thế ngay từ khi bước chân đến Shinto rồi, bởi lẽ dù bao năm xa cách, Nhật Bản mãi là quê hương ông. Dù quen thuộc với việc du hành qua nhiều quốc gia, ông vẫn cảm thấy thoải mái hơn khi ở tại nơi này.

Tâm trạng rối bời, Kiritsugu nhìn xuống gói thuốc lá ông vừa mua từ một máy bán hàng tự động ven đường.

Đã 9 năm kể từ khi ông bỏ hút thuốc. Bởi lẽ ông không thể tìm được nhãn hiệu ưa thích của mình tại vùng đất xa xôi của nhà Einsbern, nhưng lý do chính là vì hai mẹ con họ. Ngay khi vừa xuống ga Fuyuki, để chuẩn bị cho cuộc chiến, ông ném một đồng xu vào máy bán hàng theo thói quen thường lệ.

Mua chiếc bật lửa dùng tạm từ quầy lưu niệm, ông ung dung mở bao thuốc. Màu trắng của những điếu thuốc xếp ngay ngắn vẫn đẹp lạ thường như lúc xưa.

Ông rút một điếu, đặt lên miệng rồi đánh lửa. Thao tác ấy tự nhiên như thể không hề có khoảng trống 10 năm trời. Khói thuốc tràn vào phổi ông, đem đến hương vị quen thuộc đến nỗi ông tưởng như chỉ vừa thưởng thức nó vào hôm qua.

“...”

Kiritsugu nhìn lại cảnh vật xung quanh, hoàn toàn xa lạ với những gì ông còn nhớ như in trong tâm trí.

Ông từng tới Fuyuki trong một nhiệm vụ do thám ba năm trước, nhưng kể từ lúc ấy vẻ ngoài của Shinto đã thay đổi rất nhiều. Điều này không có gì lạ, nhưng nó vẫn ngoài trí tưởng tượng của ông. Do vậy ông cần kiểm tra lại địa thế của vùng này.

Mặc cho có chút khác biệt nho nhỏ, Kiritsugu đã đến được địa điểm dự kiến.

Một khách sạn ―

Sảnh lớn và cửa trước đã được tân trang, nhưng nội thất bên trong lại tương đối rẻ tiền. Đây là nơi lưu trú phù hợp cho nhiều loại khách, bất kể là các gia đình đi nghỉ hay những kẻ thích lang bạt.

Như thể biết rõ nơi này, Kiritsugu đi qua hành lang, tới thang máy và lên tầng thứ bảy. Người phụ tá đáng tin cậy của ông đã ở đây từ 3 ngày trước, trong phòng 73.

Trong thế giới của các pháp sư, mối quan hệ của ông với Hisau Maiya giống như giữa hai thầy trò vậy.

Nhưng đối với Kiritsugu, người chỉ xem phép thuật đơn thuần là một công cụ để nắm giữ, chẳng thể nào có cái cảm nhận của thầy và đồ đệ. Thứ ông dạy Maiya đơn giản là “cách chiến đấu”. Cả việc này cũng được tính là để biến cô thành một “công cụ”. Ông từng nhận xét như thế trong lúc xông vào vô số cuộc chiến bất chấp tính mạng để tìm thứ mộng tưởng không thể có trên đời, khi ông vẫn chưa biết Chén Thánh thực sự tồn tại.

Vì vậy sự liên hệ giữa ông với Maiya gắn kết hơn với Irisviel. Từng chiến đấu cùng ông, Maiya hiểu rõ mặt tối của Kiritsugu mà cả vợ ông cũng chưa hề biết.

Sau nhịp gõ được định sẵn làm ám hiệu, cánh cửa phòng 73 liền mở ra. Bỏ qua những câu chào hỏi không cần thiết, họ chỉ thoáng nhìn nhau, sau đó Kiritsugu đi vào phòng rồi đóng cửa lại.

Maiya đã tham gia vào việc chuẩn bị từ lâu. Sau khi Kiritsugu từ bỏ danh hiệu sát thủ, cô được ông chỉ dẫn để sửa soạn cho cuộc chiến Chén Thánh, và cũng từng lui tới nhà Einsbern nhiều lần.

Gương mặt dễ nhìn, làn da trắng trèo, cô là một người đẹp không cần tô son vẽ mắt. Cặp mắt sâu thẳm cùng cái nhìn chăm chú đầy đa nghi và quyết đoán, nhưng luôn giữ một phong cách thờ ơ, lãnh đạm. Mái tóc thẳng, đen n
hánh như lụa khiến nhiều chàng trai ngoái nhìn, nhưng chắc chắn họ sẽ phải từ bỏ khi thấy cái nhìn lạnh lùng, sắc bén ấy.


Tính đến lúc này, họ quen nhau đã hơn 10 năm. Cô chỉ mới là một đứa bé như họ gặp mặt, nhưng giờ đây khi không còn bé nữa, sự sắc sảo của cô càng tăng lên, trở thành một nét rất riêng; với vẻ đẹp này, người thường sẽ e dè, nhưng Kiritsugu thì ngược lại. Cô là người luôn nhìn vào hiện thực, đôi khi đưa ra những phán quyết cực kỳ chính xác, và nhẫn tâm hơn cả ông. Có Maiya, Kiritsugu không cảm thấy hổ thẹn vì hành động xảo trá hay phải kinh tởm sự tàn bạo của mình. Nó phần nào đó khiến ông an tâm.

“Có động tĩnh ở dinh thự nhà Tōsaka tối qua.”

Maiya mở đầu bằng cách đi thẳng vào vấn đề chính.

“Xin ngài xem đoạn băng ghi lại việc đó. Và mọi trang bị đã chuẩn bị xong.”

“Đã rõ. Đầu tiên hãy báo tình hình trước.”

Maiya gật đầu, rồi bật máy giải mã đoạn phim được thu lại.

Trong các phép thuật Kiritsugu đã dạy, Maiya đặc biệt tài năng trong việc điều khiển các familiar thông thường, và Kiritsugu thường giao phó trách nhiệm trinh sát và do thám cho cô. Lần này cũng vậy, Kiritsugu đã bảo Maiya theo dõi nhà Matō và nhà Tōsaka.

Loại familiar Maiya tin tưởng là dơi, nhưng không như các pháp sư khác, những con dơi của cô được gắn thêm một máy quay CCD loại nhỏ. Tất nhiên đây cũng là ý tưởng của Kiritsugu. Các ảo ảnh và màn chắn tạo ra bởi trường lực ngụy trang thường chi phối giác quan của người theo dõi, nhưng những thứ ấy lại thường lờ đi cách đối phó các thiết bị điện tử. Băng hình cũng hữu dụng khi có thể xem lại, vậy nên nếu xem xét với việc khiến familiar chậm đi, ứng dụng máy quay trong chuyện này là một phương pháp khả dĩ.

Cảnh tượng của đêm qua được tái hiện trên màn hình CRT 13 inch. Hình ảnh tuy bị nhòe nhưng cũng đủ để hiểu các sự kiện đã diễn ra. Không nhếch đến một cọng lông mày, Kiritsugu chăm chú nhìn tên Servant đeo mặt nạ không tài nào thoát khỏi chiêu thức hủy diệt của Servant giáp vàng.

Kẻ bị đánh bại chắc chắn là Servant Assassin.

“Cô nghĩ sao về việc này?”

“Nó diễn ra quá chóng vánh.”

Maiya đáp lại câu hỏi của Kiritsugu không hề do dự.

“Khoảng thời gian giữa lúc Assassin hiện hình và đòn tấn công từ Servant của Tokiomi quá ngắn. Hẳn là hắn đã đợi sẵn từ trước. Nếu hắn đã phát hiện ra có kẻ đột nhập trong dạng linh hồn thì không phải nói gì, nhưng đây là một Assassin với kỹ năng che giấu hiện diện... Tôi nghi ngờ nhà Tōsaka đã biết có sự xâm phạm này từ lâu rồi.”

Kiritsugu gật đầu. Là người được ông đào tạo, kết luận của Maiya không có gì để phàn nàn.

“Càng nghĩ ta lại càng thấy như đây là một sự sắp đặt. Tại sao Tokiomi lại dễ dàng để lộ một Servant có sức mạnh lớn đến vậy?”

Nhà Tōsaka tất nhiên đã tích lũy kinh nghiệm từ hai cuộc chiến trước. Không lý nào họ không biết việc các Master khác đang theo dõi dinh thự của mình.

Heaven’s Feel là cuộc chiến giữa những anh hùng danh tiếng. Và huyền thoại họ tạo ra bao gồm cả thông tin về cách chiến đấu, điểm mạnh yếu của từng người. Điều này đồng nghĩa với việc kỹ năng và yếu điểm của một heroic spirit dễ dàng bị nhận thấy ngay trong trận đánh đầu tiên.

Do đó, giấu đi danh tính của heroic spirit trong các trận đánh giữa các Servant đã trở thành luật bất thành văn. Ở điểm này, heroic spirit được gọi theo trường phái thay vì tên họ để tránh tiết lộ thân phận thật sự.

Đêm qua, Tokiomi đã phơi bày hai đầu mối về danh tính Servant của ông cho các Master khác, đó là hình dáng và chiêu thức trông như một Noble Phantasm của anh ta. Dù chưa có gì đủ để xác định anh ta là ai, nhưng sự liều lĩnh này có thể tránh được dễ dàng. Nếu muốn hạ Assassin, ông có thể làm thế mà không để người khác thấy.

“Cho ta thấy thứ lẽ ra không nên để ta thấy― vậy đó chỉ có thể là thứ hắn muốn chúng ta chứng kiến.”

Kiritsugu lại gật đầu với kết luận của Maiya.

“Rất có thể. Nếu việc đó có chút giá trị, thì sẽ không cần đến lời giải thích nữa... Maiya, còn chuyện xảy ra với Master của Assassin?”

“Ông ta đến nhà thờ đêm qua và thỉnh cầu vị giám sát bảo hộ. Đó là người tên Kotomine Kirei.”

Nghe thấy cái tên đó, đôi mắt Kiritsugu ánh lên sự cảnh giác cao độ.

“Maiya, mau gửi một familiar đến nhà thờ Fuyuki. Hiện tại chúng ta chỉ cần một con thôi.”

“...làm vậy được không? Nhà thờ là nơi các giao tranh giữa Master bị cấ
m mà.”


“Trừ phi vị linh mục giám sát nhận ra, hãy cứ giữ một khoảng cách nhất định. Đừng làm quá là được. Chỉ cần ông ta không biết chuyện này thôi.”

Maiya nhíu mày trước chỉ dẫn khó hiểu của Kiritsugu.

“Tôi không phải theo dõi nhà thờ sao?”

“Cô cứ làm như thể đang “tuần tra thông thường”. Điều nhất thiết cần chú ý là không để bị phát hiện.”

“...Vâng, tôi hiểu rồi.”

Maiya không thể biết Kiritsugu đang nghĩ gì, nhưng không muốn hỏi ông. Ngay tức thì cô chọn một trong ba con dơi đang giám sát dinh thự nhà Tōsaka và truyền lệnh cho nó đến nhà thờ Fuyuki ở cuối khu Shinto.

Kiritsugu tắt TV, và quay sang kiểm tra những trang bị Maiya đã chuẩn bị.

Trong các vật dụng xếp ngay ngắn trên tấm khăn trải giường chờ Kiritsugu xem xét, chẳng có cái nào khiến một pháp sư chú ý cả. Đó chẳng phải là nguyên liệu cho các nghi thức tâm linh như một con dao, chiếc tách, bùa chú, dược thảo hay những vật chứa sức mạnh linh thiêng. Dù quả thực rất hiệu quả và được thiết kế tinh xảo, nhưng chúng chẳng là gì ngoài những vũ khí thông thường. Không cái nào có khả năng tích trữ prana.

Đây là thứ ‘dị giáo’ đã khiến Kiritsugu nhận biệt danh “pháp sư sát thủ”.

Điểm yếu của những kẻ mang danh hiệu pháp sư thường là sơ suất do tính kiêu ngạo. Họ tin vào kiến thức và những điều huyền bí của riêng mình. Chẳng bao giờ họ nghĩ rằng mối nguy hại trừ Thượng Đế ra lại chẳng phải là một người trong số họ.

Vì thế, trong lúc chiến đấu, họ không quan tâm đến thứ gì ngoài vết tích của phép thuật. Phải phát hiện ra kể cả những kỹ thuật sơ đẳng nhất. Do vậy họ chú tâm luyện cảm quan đối với phép thuật, và nghĩ đến cách đối phó những kỹ năng này như yếu tố quyết định thắng bại― Đó là lý thuyết mà không một pháp sư nào đi ngược lại.

Kết quả là họ phớt lờ bất cứ đòn tấn công nào chỉ đơn thuần theo khái niệm vật lý mà thiếu tính chất của ma thuật. Họ chẳng việc gì phải sợ con dao sắc bén nhất, viên đạn có uy lực mạnh nhất, chỉ đến khi chúng thực sự đâm qua da thịt của một pháp sư. Và trước khi chuyện đó xảy ra, sức mạnh ma thuật tạo ra ảo giác, phương thức gây tê liệt, hoặc những trường lực phòng hộ, đủ sức vô hiệu hoàn toàn bất kỳ công kích trần tục nào.

Và họ xem thường công nghệ. Những gì một người không dựa vào phép thuật có thể làm ― rất nhiều pháp sư không thể lĩnh hội được.

Đòn thế mà kẻ thù không ngờ đến chính là lối tắt dẫn đến thắng lợi trong tất cả trận đấu. Kiritsugu đã đi đến một kết luận từ rất nhiều trận đánh sinh tử giữa các pháp sư. Đó là, pháp sư yếu kém khi phải chống chọi với những tấn công phi ma thuật.

Áp dụng kết luận ấy vào trường hợp của Heaven’s Feel tại Fuyuki, Maiya đã chuẩn bị một bộ trang bị. Trong số chúng, khẩu súng trường là thứ cho ra mùi khói đạn nhiều nhất. Một tác phẩm nghệ thuật kết tinh từ kỹ thuật điện tử tân tiến cộng với một kiểu dáng đáng sợ.

Nền tảng thiết kế của nó là khẩu súng trường bắn tỉa bán tự động Walther WA2000. Một khẩu súng với chiều dài tổng cộng khoảng hơn 90 centimet, được chỉnh sửa cho gọn lại; Kết cấu bullup gọn nhẹ với ổ đạn vận hành bằng khí gas khiến độ dài của nòng súng lên đến 65 centimet. Sử dụng đạn .300 Winchester Magnum có tầm hiệu quả 1000 mét. Trong thế giới hiện đại, đây là khẩu súng cao cấp nhất, với khả năng sử dụng cao nhất. Giá thành đến chóng mặt 12.000 USD bởi vì nó là một trong chỉ 154 khẩu được sản xuất cho loại súng này.

Thay vì loại nòng ngắm tiêu chuẩn của hãng Smith & Bender, Kiritsugu lắp đồng thời cặp thiết bị song song như một kính ngắm đặc biệt, đặt trên nòng và sườn trái, đều là những ống kính quang học loại lớn.

Ở chính giữa là kính nhìn ban đêm, thuộc loại tốt nhất của quân đội Mỹ, hiệu AN/PVS04. Thiết bị này, một dạng máy quay video siêu nhạy, là bộ khuếch đại ánh sáng bằng điện tử với một thấu kính đưa lên và hiển thị độ sáng hoàn hảo nhất. Đây quả là một “mắt cú mèo” điện tử thực thụ có thể nâng tầm nhìn đến 3.6 lần, 600 yard dưới ánh sáng trăng hoặc 400 yard dưới ánh sáng từ sao trời. Thực chất thì đây là trang bị mới nhất được quân đội Mỹ sử dụng và đã bị cấm xuất khẩu để tránh rò rỉ công nghệ.

Hơn thế nữa, nó còn được ông lắp thêm thiết bị cảm ứng nhiệt bằng hồng ngoại để hỗ trợ. Đây cũng là một công cụ điện tử để nhìn vào ban đêm, nhưng thay vì tăng cường độ và chất lượng hình ảnh, lại hiển thị thân nhiệt của đối tượng. Nó có thể nhận biết thay đổi nhiệt lượng từ -5 đến 60°C trong khoảng cách 200 mét với độ phóng đại 1.8 lần.

Khám phá ra việc vận hành Mạch ma thuật sẽ thay đổi thân nhiệt của người sử dụng, Kiritsugu đã không ngừng nghiên cứu và rè
n luyện để có thể đọc, qua các tín hiệu nhiệt, trạng thái hiện tại của Mạch ma thuật bằng cách nhìn những phân bổ nhiệt lượng trên cơ thể con người. Để thấy được sự khác biệt rõ ràng giữa một pháp sư và người bình thường, đó sẽ là cơ hội khi người đó phóng thích prana. Điểm chính yếu của việc sử dụng cả hai thiết bị quan sát cỡ lớn này không chỉ cho việc chiến đấu ban đêm, mà còn là hiệu chỉnh đặc biệt để đối mặt với các pháp sư.


Dù đã có những tiến bộ đều đặn trong công nghệ thu nhỏ, theo năm tháng, nhờ các phát kiến phi ma thuật, một thiết bị viễn thám vẫn ở cỡ một cái chai nhựa, quá cồng kềnh so với những thiết bị quang học khác. Và trên hết, thiết kế nhỏ gọn của nòng súng đi cùng với cặp kính khổng lồ cho một cảm giác khó coi và không cân xứng. Tổng trọng lượng của khẩu súng nặng đến 10 kg. Nó đã trở thành một vũ khí dành cho các biệt đội yểm trợ hơn là một vũ khí bắn tỉa. Trang bị chính này có vẻ như sẽ gây khó khăn trong việc sử dụng, nhưng Kiritsugu đã tính toán kỹ lưỡng trước thách thức này.

Khi so sánh với phép thuật, khẩu súng tất nhiên thua xa. Ma thuật giúp con người thấy rõ hơn trong đêm tối, và cũng nhận biết được vị trí của một pháp sư đối địch. Nhưng với cây súng này, Kiritsugu có thể bắn hạ mục tiêu mà không dùng đến chút prana nào.

Ở trong bóng bối, không thể phát hiện prana, khả năng bị bắn trúng từ khoảng cách vài trăm mét― là một tình huống mà người lính thực thụ chẳng lạ gì, nhưng rất nhiều pháp sư lại thiếu kinh nghiệm với điều này. Quả thật, một pháp sư đã bước vào thế giới huyền bí vượt ngoài tầm hiểu biết của người thường không thể nào lại liên hệ đến các định kiến của thế giới thấp kém bên dưới.

Kiritsugu cầm khẩu súng hạng nặng lên, kiểm tra độ bật của khóa nòng và sức nặng của cò súng, chắc chắn nó ở trong tình trạng hoàn hảo nhất.

“Với khoảng cách 500 mét thì không cần phải chỉnh thêm, ngài có muốn thử không?”

“Không, vậy được rồi.”

Ông không những muốn kiểm tra độ hiệu chỉnh, mà còn được bắn thử nữa cơ, nhưng với hiến pháp của Nhật Bản, điều này lại không dễ thực hiện. Với diễn biến khốc liệt của cuộc chiến, có thể ông sẽ phải dùng nó ngay trong đêm nay, do vậy Kiritsugu hoàn toàn tin tưởng vào công việc của Maiya.

Ngoài ra còn một khẩu súng nữa, bên cạnh khẩu Walther, dành cho Maiya – người sẽ đóng vai trò của một trinh sát tiên phong, là khẩu Steyr AUG. Nòng ngắm nhìn đêm của nó cũng được đổi, giống như khẩu của Kiritsugu, và ngạc nhiên hơn là nó chỉ nặng dưới 5 kg.

Thêm vào đó, một khẩu Calico M950 loại súng máy nhỏ cũng đã sẵn sàng như vũ khí dự trữ. Kích cỡ của nó không khác khẩu súng ngắn là mấy, và vỏ nhựa gia cố thêm khiến nó trông giống một món đồ chơi, không như cây Walther; nhưng qua ổ đạn độc đáo với hệ thống được gọi là “vòng trôn ốc” cho phép sử dụng loại đạn tròn 50 Parabellum, khả năng bắn tới 700 viên mỗi phút cũng đủ cho ta thấy đó là thứ vũ khí chết người.

Vật dụng còn lại bao gồm lựu đạn cầm tay và lựu đạn khói, hoặc loại gây choáng và thuốc nổ dẻo C2. Theo chỉ dẫn từ phương Bắc xa xôi của Kiritsugu, Maiya đã chuẩn bị mọi thứ mà không để lộ một kẽ hở nào. Tuy vậy trong mắt của Kiritsugu vẫn chưa thấy được vẻ thỏa mãn.

“Và thứ ta đã giao phó cho cô?”

“...Nó đây...”

Maiya cung kính lấy một chiếc hộp bằng gỗ hồng mộc ra khỏi ngăn kéo. Dường như sự tôn kính này phần nào làm gương mặt xinh xắn không bao giờ biết cười trở nên lạnh lùng thêm nữa.

Nhận lấy chiếc hộp, Kiritsugu đặt nó lên bàn, tháo then cài và mở ra một cách điêu luyện.

Những vũ khí trên giường đều là loại tối tân nhất hiện nay. Thế lực của nhà Einsbern dư sức tìm ra nguồn kinh phí và các mối quan hệ cần thiết để thu thập loại trang bị tinh xảo và tân tiến nhất với bất cứ giá nào.

Nhưng khẩu súng ngắn đang say ngủ bên trong hộp không phải là thứ mà tiền bạc có thể mua được. Đây là vũ khí Kiritsugu ưa dùng nhất trong vô vàn chiến trận, thứ ông giao cho Maiya khi rút vào ẩn dật 9 năm trước, một món đồ độc nhất vô nhị, vũ khí mà chỉ mình Kiritsugu có thể dùng.

Loại trang bị công nghệ cao là vật dụng của Emiya Kiritsugu “Pháp sư sát thủ”. Nhưng còn có một vũ khí dành cho vị pháp sư Emiya Kiritsugu. Đó là “Mystic Code” của ông ― thứ vũ khí mà qua nó người pháp sư có thể thi triển ma thuật trong chiến trận.

Thompson Center's Contender. Với cán và mặt trước chạm bằng gỗ hồ đào, nòng súng dài 14 inch, gợi lên hình ảnh của con dao sắc bén giấu mình trong vỏ. Phần thiết kế chỉ gồm cò súng và kim hỏa của búa đập, còn bên trong không hề có ống hình trụ và rãnh trượt, khiến nó gần giống như là cây súng phóng tiễn trong giờ khắc cuối thời Trung Cổ.

Thực ra, Contender là loại súng lục bắn từng phát một vơ
́i ổ đạn kín. Đây căn bản là cây súng dùng trong thể thao; nhưng nòng súng của Kiritsugu đã được thay đổi sang đường kính của súng săn chuyên dụng, và trên hết, nó đã được hiểu chỉnh bằng ma thuật để bắn ra loại “đạn ma thuật”.


Đạn được dùng là .30-06 Springfield. Loại đạn với kết cấu cổ chai, chỉ riêng kích thước và lực công phá của nó đã khác xa đạn dùng cho súng lục. Đạn .30-06 thì mạnh hơn đạn .308 Winchester đến 10%, và còn vượt qua cả tiêu chuẩn dành cho súng ngắn của loại đạn Magnum. Bắn ra từ một khẩu súng lục, nó sẽ cho ra hỏa lực cực mạnh.

Nhưng sự nguy hiểm của khẩu súng này lại không phải lực công phá của thuốc nổ và đầu đạn.

Những viên đạn đặc biệt đặt chung với nó trong hộp ― yểm bên trong lõi của 2 viên đạn này là xương được tán nhuyễn của chính Kiritsugu. Khi prana của ông được phóng ra, những viên “đạn ma thuật” ép vào mục tiêu ‘bản chất’ của vị pháp sư mang tên Kiritsugu. Nói cách khác, ta có thể gọi nó là vật mô phỏng của vũ khí mang tính nhận thức.

Công nghệ trở thành điểm chết cho các pháp sư gắn kết với phép thuật... Cuối cùng thì đây cũng chỉ là một khuynh hướng, mà không hề đảo ngược nguyên tắc chung nhất. Quả thật, có rất nhiều pháp sư trên thế giới này bại trận bởi những công cụ như kính nhìn ban đêm hoặc kính tầm nhiệt. Tuy nhiên, vẫn có những ngoại lệ mà ta không thể tính toán trước được. Tính nhất quán của pháp sư chỉ có nghĩa là không có nhiều kẻ vượt khỏi nguyên tắc ấy. Kiritsugu gọi những kẻ ấy là “kẻ thù đáng gờm”.

Chống lại loại kẻ thù này, mưu mẹo là vô dụng― Kiritsugu, chỉ với tư cách của một pháp sư, phải tự dùng đến sức mình khi ông không còn bí mật để tận dụng. Vào lúc ấy, khẩu Contender sẽ trở thành móng vuốt mạnh mẽ nhất của ông.

Vặn lại chiếc đồng hồ thời gian trong tim mình, Kiritsugu nhấc khẩu Contender khỏi hộp. Trong quá khứ, khẩu súng gỗ hồ đào đã thấm mùi mồ hôi trên tay ông không biết bao lần, sau 9 năm xa cách, nó vẫn nằm gọn trong bàn tay và khớp với từng ngón tay ông.

Dẫu có là đôi tay nắm lấy cán súng, hay cán súng ôm chặt đôi tay, cảm giác ấy vẫn không thể dùng lời lẽ để tả. Có thể nếu ông chỉ dùng một ít sức mạnh, khẩu súng sẽ hòa vào từng khớp xương trên tay ông, đồng nhất như một.

Cẩn thận kéo nắp đậy bằng ngón tay trỏ, khóa băng đạn được mở ra và sụp xuống. Lắp một viên đạn từ chiếc hộp vào ổ đạn, ông dập nòng súng lại bằng cổ tay của mình. Với viên đạn vừa thêm vào, tổng trọng lượng của nó là 2.6 kg. Tay phải của Kiritsugu nhận ra cảm giác quen thuộc.

Cùng lúc ấy, ngực ông đau nhói khi phải nghĩ đến việc mình đã quá quen với cảm nhận từ một công cụ giết người.

Rốt cuộc rồi đây đôi tay ông có còn nhớ cái cảm giác được chạm vào vợ và con gái?

Từng gò má mềm mại, từng ngón tay mảnh khảnh, liệu Kiritsugu có thể nhớ được đến đâu?

Cầm viên đạn còn lại lên, Kiritsugu tiếp tục quá trình nạp đạn mà tay ông đã quá quen thuộc.

Đẩy vành của phần trước viên đạn vào ổ đạn trống, ông lắp thêm viên thứ hai, và nhanh chóng dập khóa nòng súng―

Cả thảy mất 2 giây. Những suy nghĩ miên man đã làm thao tác của ông chậm đi.

“... Kỹ năng của ta đã hen rỉ mất rồi...”

“Vâng.”

Khi Kiritsugu đang lẩm bẩm tự chế giễu mình, Maiya gật đầu không cân nhắc. Cô hiểu rõ khả năng trước đây của đồng sự. Kiritsugu rút viên đạn vừa nạp vào súng, nhặt viên ông bỏ xuống sàn, và đặt mọi thứ vào lại chiếc hộp.

“Ilya còn nhẹ hơn cả khẩu Walther này. Và con bé đã 8 tuổi rồi.”

Buông xuôi ký ức đáng hổ thẹn của mình, Kiritsugu thả lỏng cơ thể. Bất ngờ Maiya di chuyển ra sau người ông khiến ông phải dừng dòng suy nghĩ đang chảy bất tận.

Lẹ làng như một con rắn, cánh tay cô ôm lấy cổ Kiritsugu, tóm lấy gáy ông, khóa chặt mọi cử động, và khóa cả môi ông nữa― cô nhẹ nhàng hôn ông.

Cảm nhận và hương vị của một nụ hôn không phải từ người phụ nữ trong tim mình. Nó phá tan nỗi nhớ nhà của người đàn ông, nhưng lại quá bất ngờ để có thể tha thứ.

“...Xin hãy tập trung vào những việc cần thiết phải làm lúc này. Đừng nghĩ đến những thứ ngài không cần tới.”

Với giọng nói nhẹ, như còn lưu lại vết tích của nụ hôn ban nãy, Maiya nhắc nhở Kiritsugu.

“...”

Không còn lời nào, Kiritsugu cảm thấy như vết thương trên ngực mình dịu đi. Trong tâm trạng dần bình tĩnh lại, nỗi đau đã tan biến như một làn sương mờ ảo.

Cô ấy là kiểu phụ nữ như thế. Người phụ nữ từng là cô be
́ được ông cứu sống từ một chiến trường chìm trong vết bụi mờ của quá khứ.


Như một cỗ máy hỗ trợ mà hành động lại máy móc hơn cả chính người tên Emiya Kiritsugu. Đó là Hisau Maiya. Vũ khí cuối cùng không thể thay thế được để ông thắng cuộc chiến này... Không gì khác ngoài người phụ nữ ấy.

Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2008

Novel Fate/Zero: Act 2 (P.4)

(Translated by kane yuki)

172:38:15

Nếu có câu nói rằng ban đêm vạn vật đều say giấc, thậm chí cả cây cối, thì câu nói ấy không thể áp dụng cho các pháp sư và Servant.

Vị anh hùng ngự trị bóng đêm – Assassin, là kẻ rõ hơn ai hết những rắc rối của việc phải hành sự đêm khuya.

Đặc biệt là khi các pháp sư quy tụ về thành phố Fuyuki bắt đầu tăng cường kiểm soát gấp đôi. Toạ lạc trên ngọn đồi của thị trấn Miyama, điền trang của hai dòng họ Matou và Tohsaka đều là những toà nhà lộng lẫy tráng lệ vào bậc nhất.

Dạo gần đây, Master của hai dòng họ đó đã cắt đặt một số familiar cấp thấp kiếm soát chặt chẽ từ trái sang phải, cả ngày lẫn đêm ở khu vực xung quanh các cứ địa lộ liễu này. Họ còn giăng vô số trường lực kết giới để phòng thủ và phát hiện kẻ địch ở khắp nơi, thậm chí bên trong khuôn viên nhà mình; nói theo cách của người sử dụng ma thuật, khu vực đó giờ đã là một pháo đài vững chắc.

Việc xâm nhập vào trường lực kết giới là rất nguy hiểm, nhất là đối với những thực thể có lượng prana khổng lồ như Servant. Căn bản, cả những linh hồn cũng không thể vượt qua trường lực kết giới mà không bị phát hiện.

Mặc dù vậy, không có gì là hoàn toàn không thể. Kĩ năng “Che giấu hiện diện” của Asssassin class cho phép biến cái không thể ấy thành cái có thể. Tuy không có được những kĩ năng chiến đấu vượt trội, các Assassin có thể nén lượng prana phát ra ngoài tới khi đạt đến mức độ của “con số không”, giúp Assasin thoải mái hành động trong bóng đêm.

Thêm nữa, đối với Assassin hiện tại – Servant của Kotomine Kirei, buổi do thám đêm nay đặc biệt dễ dàng. Khu vườn Assassin đang lẻn vào không phải lãnh địa của kẻ thù như vườn trong lâu đài Matou. Đó là vườn nhà Tohsaka Tokiomi, kẻ mà cho đến hôm qua còn là đồng minh của Kirei. Trong thời gian Tokiomi và Kirei hợp tác, họ đã thống nhất che giấu quan hệ trước mặt các Master khác. Đương nhiên Assassin tán thành. Vì sự thoả hiệp đó, hắn đã từng làm nhiệm vụ phòng thủ nơi này rất nhiều lần. Do vậy, hắn tường tận cách bố trí các trường lực và “điểm chết” của hệ thống bố trí đó.

Ở dạng thức linh hồn, Assassin đã vượt qua các trường lực cảnh báo mà không gặp chút khó khăn gì. Hắn cười nhạo cái nghiệp trớ trêu của Tohsaka Tokiomi. Gã pháp sư ngạo mạn ấy đã quá tin tưởng vào người hắn nhận giám hộ - Kirei, đến nỗi không ngờ được rằng chó săn lại quay sang cắn chủ.

Kirei đã lệnh cho Assassin ám sát Tokiomi cách đây gần một giờ. Hắn không rõ điều gì khiến Kirei đổi ý, nhưng chắc chắc sự thay đổi đó có liên quan đến việc Tokiomi vừa triệu tập một Servant vài ngày trước. Có vẻ hắn ta gọi được một Archer, nhưng dường như heroic spirit đó không mạnh như Kirei nghĩ. Do sự hợp tác với Tokiomi đã không còn, Assassin liền đồng ý với quyết định của Kirei.

“Không cần quá thận trọng. Nếu phải đối mặt Archer cũng không sao. Mau xoá sổ Tohsaka Tokiomi đi.”

Đó là nội dung mệnh lệnh từ Master của hắn, Kirei. Hắn, Assassin, chiến binh yếu nhất, không cần dè dặt, cũng không cần quá gấp gáp ---- Có lẽ cũng chẳng khó khăn gì để qua mặt tay heroic spirit mà Tohsaka Tokiomi đã triệu hồi – kẻ yếu hơn so với tính toán của ông ta.

Khi đã qua suôn sẻ khoảng nửa khu vườn thì điểm yếu của hệ thống kết giới sẽ biến mất. Kể từ vị trí đó, muốn phá kết giới phải sử dụng tác động vật lý, vừa gỡ bỏ nó vừa từ từ đi vào. Có điều, không thể tiến vào khi đang ở dạng thức linh hồn mà phải ở dạng thức hình thể.

Lặng lẽ trườn dưới những bóng cây, Assassin, trở lại dạng hình thể với dáng người cao, gầy gò, xương xẩu. Hắn có thể cảm thấy nhiều con mắt đang quan sát hắn từ xa; cảm giác khác hẳn với trường lực kết giới của lâu đài Tohsaka. Đó là các familiar của những Master khác đang do thám lâu đài Tohsaka từ bên ngoài kết giới. Nhưng chẳng sao; cho đến khi hắn còn chưa bị Tokiomi phát hiện thì không cần phải e ngại mấy tên tọc mạch đó. Kẻ đang tham gia tranh đoạt Chén Thánh với Tokiomi chẳng bao giờ lại cảnh báo hắn về sự xâm nhập của Assassin được. Cười thầm, Assassin duỗi một tay chạm vào chiếc khoá kết nối trường lực đầu tiên.

Chỉ một giây sau, cánh tay đó đã bị chọc thủng bởi một ngọn thương xuyên qua không trung từ bên trên, loé sáng như ánh chớp.

“...h!?”

Cơn đau dữ dội, nỗi kinh hoàng, và trên hết cả, sự bất ngờ sửng sốt. Một cú thương tuy đơn giản nhưng không thể lường trước được, khiến Assassin ngẩng phắt đầu lên, tìm kiếm kẻ vừa phóng thương..

Không, chẳng cần tìm làm gì.

Trên đỉnh toà lâu đài, một bóng người đứng giữa màu vàng hoàng kim chói lọi. Ánh hào quang thần thánh che mờ cả trời sao lộng lẫy, khiến cả vầng trăng cũng phải lấy làm xấu hổ trốn vào sau lưng mây .

Sự giận dữ vì bị thương khiến Assassin quên bẵng cơn đau, nhưng hắn cũng không khỏi rùng mình trước sức mạnh áp đảo trước mắt.

“Tên sâu bọ đang luồn lách dưới đất kia, ngươi đang cầu khẩn ai ân xá cho ngươi đấy?”

Một cách hờ hững, người đó cất lời hỏi Assassin đang trốn bên dưới, liếc hắn với đôi mắt đỏ rực chứa đầy sự khinh bỉ.

“Ai cho phép ngươi nhìn ta. Sâu bọ chỉ được phép nhìn xuống đất khi mất mạng mà thôi, như chính cuộc đời của lũ bọn ngươi.”

Xung quanh bóng người hoàng kim đó, vô số vật thể sáng loà xuất hiện, nhiều đến nỗi đếm không xuể. Những vật thể hiện hình giữa không trung ấy là đao kiếm, thương kích; không cái nào giống cái nào, và cái nào cũng được trang trí rực rỡ. Tất cả đều đang chĩa về phía Assassin .

Ta không thể thắng. Bản năng ngay lập tức mách bảo Assassin.

Không thể thắng nổi kẻ này. Ngay đến chuyện đối mặt hắn đã là quá ngu ngốc.

Nếu hắn có thể tấn công Assassin, một Servant, thì có nghĩa đó đích thị là một Servant. Và hắn ngăn cản những kẻ xâm nhập vào lâu đài Tohsaka, tức Master của hắn là Tokiomi. Hay nói cách khác, hắn chính là Archer.

Không có gì phải sợ *kẻ này*?

Bằng lòng tin với Master, Assassin đã hiểu, không có sự mâu thuẫn trong lời Kirei.

Trước một kẻ thù với sức mạnh áp đảo, sợ ư --- đúng, chẳng có chỗ cho sự sợ hãi ---

Chỉ có tuyệt vọng và buông xuôi.

Hằng hà sa số những lưỡi gươm sáng loá xé gió lao về phía Assassin.

Những con mắt lia theo hắn. Lũ familiar đang do thám bên ngoài. Servant đầu tiên thất bại trong cuộc chiến Chén Thánh thứ tư nhận một kết cục thật khó coi, thậm chí không trả được đòn nào; hồi tàn của hắn bị các Master khác chứng kiến.

Và, vào giây phút cuối cùng, Assassin đã hiểu. Bộ mặt thật sự của Master hắn, Kotomine Kirei, và… kẻ chỉ đạo, Tohsaka Tokiomi.

o0o


Thư giãn trên một chiếc ghế êm ái trong phòng mình, Tohsaka Tokiomi lắng nghe tiếng vô số Noble Phanstam cắm xuống mặt đất, nghiền từng mẩu thịt thành những mảnh vụn.

“Chà, mọi chuyện diễn tiến tốt đẹp. Bây giờ…”

Vị pháp sư tự lẩm bẩm với chính mình, gương mặt ánh lên một phong thái vương giả. Nhưng cái chất vương giả ấy của người này khác hẳn với vẻ hoàng kim của người vừa tiêu diệt kẻ xâm nhập trên đỉnh lâu đài ban nãy, giờ đây đang kiêu hãnh tiến về phía Master của mình. Đó là Archer, vừa bước vào phòng Tokiomi sau khi chuyển đổi từ sang dạng thức hình thể; bóng dáng hoàng kim lộng lẫy bước đi nổi bật lên giữa ánh đèn mờ mờ ảo ảo.

Người Servant vận áo giáp bằng vàng sáng ngời, dáng người dong dỏng toát lên vẻ cao quý. Một chàng trai trẻ với mái tóc vàng rực rỡ vươn lên như lửa cháy bừng bừng và gương mặt điển trai tao nhã. Đôi mắt anh ta đỏ như máu, hiển nhiên không phải mắt người thường; và bất cứ ai bị đôi mắt ấy nhìn thấu tất sẽ bủn rủn cả người trước một hào quang thần bí khó tả.

“Ngài buộc ta thực hiện những nhiệm vụ quá vặt vãnh, Tokiomi.”

Tokiomi đứng dậy, cúi đầu biểu lộ vẻ kính cẩn nhưng vẫn rất thanh lịch.

“Xin thứ lỗi vì đã khiến ngài phiền lòng, vua của các vì vua”

Là một Master, cách đối xử với Servant như vậy có phần quá khiêm nhường. Nhưng Tohsaka Tokiomi muốn thể hiện lòng biết ơn không dè dặt với vị anh hùng ông đã triệu hồi. Xuất thân từ dòng dõi cao quý, Tohsaka Tokiomi có thể cảm nhận được “chất quý tộc” tốt hơn bất cứ ai. Vị khách danh giá mà Tokiomi đã mời đến để giành phần thắng ở Heaven’s Feel thứ tư này không phải một Servant tầm thường mà là vị anh hùng mạnh nhất.

Chàng trai, hiện thời có thể gọi là Archer, chính là “Vua của các anh hùng”, Gilgamesh. Vị chúa tể đã trị vì Messopotamia cổ, mang trong mình dòng máu của cả thần linh và con người; là người anh hùng xuất hiện ở chương đầu tiên của lịch sử nhân loại, một trong những vị vua xa xưa nhất.

Tokiomi tin vào dòng máu quý tộc trong con người này. Dù là quyền lực tối cao của Phong Ấn Chỉ Huy hay bản giao ước có hiệu lực mạnh nhất cũng không thể lấn át đựơc địa vị thực. Cho dù có là Servant, chàng trai này vẫn xứng đáng được nhận sự tôn trọng nhất.

“Sự kiện tối nay sẽ giúp chúng ta tránh được ít nhiều phiền phức. Những kẻ đã chiêm ngưỡng sức mạnh của “Vua của các anh hùng” sẽ không dám làm bừa nữa.”

“Mm.”

Archer phải nhìn nhận rằng Tokiomi nói đúng. Nhưng cái cách ông ta thể hiện quan điểm đúng đắn ấy lại quá thừa tính xu nịnh, mà trong hoàn cảnh này thì lại càng thừa hơn. Vua của các anh hùng hiểu được điều đó.

“Những con thú hoang đang vùng vẫy sẽ hiểu ai mới là mãnh sư ngay thôi. Xin hãy kiên nhẫn cho đến thời khắc đó.”

“Được thôi. Vậy ta sẽ tản bộ một lúc. Thế giới này xem ra cũng khá thú vị đấy.”

Tokiomi che giấu sự khó chịu bằng một cái nhìn chua chát.

Tất nhiên, Servant ông đã triệu tập là người mạnh nhất. Nhưng anh ta lại khiến ông phải đau đầu vì tính tò mò của mình mỗi khi trốn đi lang thang khắp nơi. Từ khi đến thế giới này, chưa lần nào anh ta ngoan ngoãn ở yên trong dinh thự nhà Tohsaka được trọn một đêm cả. Tokiomi đã phải tốn rất nhiều công sức mới có thể kéo Archer ở lại đối phó với cuộc đột kích của Asssassin đêm nay.

“Ngài hài lòng với thế giới này chứ?”

“Sự già cỗi xấu xí thì không cứu vãn nổi rồi. Nhưng cũng có điểm thú vị riêng.

Điều quan trọng là có hay không một báu vật tương xứng với cơ đồ của ta”.

Ba hoa với một nụ cười giễu cợt, Archer đưa mắt nhìn Tokiomi bằng một cái nhìn đầy quyền uy.

“Nếu không có một thứ gì xứng đáng với sự hứng thú mà ta đã dành cho thế giới này --- cái giá phải trả vì đã gọi ta đến đây một cách vô nghĩa rất đắt đấy, Tokiomi”.

“Xin ngài yên trí. Chắc chắn Chén Thánh sẽ khiến ngài hài lòng.”

Tokiomi tự tin trả lời, không hề có một chút sợ hãi.

“Điều đó để tự ta quyết định...Được rồi, từ giờ ta sẽ làm như những gì ngài bảo. Toàn bộ báu vật trên thế gian này đều là của ta. Ta sẽ không tha thứ cho bọn tạp chủng dám cả gan tranh đoạt Chén Thánh - một trong những báu vật đó.”

Khi lời tuyên bố ngạo mạn đã dứt, vị vua của các anh hùng quay gót rồi biến mất như một làn khói, trở lại dạng thức linh hồn.

“Ta sẽ là mãnh sư của ngài, và ta mong đợi nó thật sự thoải mái. Chuyện đó giao cho ngài đấy, Tokiomi.”

Tokiomi cúi đầu trước giọng nói cất lên từ hư không. Ông tiếp tục cử chỉ tôn kính cho đến khi vị anh hùng đã khuất khỏi căn phòng.

“Phù... thế đấy.”

Vị pháp sư thở phào khi vị vua hoàng kim đã đi mất.

Mỗi Servant đều nhận những kĩ năng nhất định tương ứng với class của heroic spirit trong thế giới hiện tại. Đó là những khả năng như “Che giấu hiện diện” của Assassin, “Tạo dựng lãnh địa” của Caster, hay “Vật cưỡi” của Saber và Rider. Tương tự, một Servant được xếp vào class Archer sở hữu kĩ năng độc nhất vô nhị “Hành động độc lập”.

Đó là khả năng cho phép các Servant không bị lệ thuộc vào Master cung cấp prana; năng lực này rất hữu dụng trong một số trường hợp như khi Master cần tập trung toàn bộ prana để thực hiện một phép thuật quy mô lớn hoặc khi Master bị thương và không thể cung cấp đủ prana cho Servant. Mặt khác, điều này làm Master khó khiến Servant luôn tuân lệnh và khống chế Servant trọn vẹn.

Là một Archer, kĩ năng “Hành động độc lập” của Gilgamesh đạt đến hạng A. Với hạng mức này, anh ta có thể sử dụng Noble Phanstam tuỳ ý và duy trì sự tồn tại mà không cần Master hỗ trợ… Nhưng cũng chính bởi vì vậy nên vị vua của các anh hùng đã bỏ ngoài tai ý kiến của Tokiomi mà đi khắp mọi nơi ở thành phố Fuyuki theo sở thích riêng. Thường xuyên cách xa nhau, Tokiomi không thể nào biết Servant của chính ông đang ở đâu, làm gì.

Chẳng mấy hứng thú với cái thế giới này nên Tokiomi không hiểu nổi cái gì có thể khiến một anh hùng từ xa xưa cảm thấy thú vị khi đi lang thang xem xét cuộc sống của con người.

“Dù sao, hiện tại Kirei vẫn có thể giải quyết được việc như vậy. Cho đến lúc này, mọi chuyện luôn diễn ra theo kế hoạch.”

Cười khẩy, Tokiomi đưa mắt nhìn ra khu vườn bên ngoài cửa sổ. Di tích của cuộc tàn phá diễn ra khi tên Assassin lẻn vào khiến quang cảnh khu vườn trông như thể vừa qua một trận bom.

o0o


“Assassin ---- chết rồi sao?”

Waver Velvet tròn mắt vì kết cục quá nhanh chóng này của Assassin.

Sau khi bí mật quan sát trận đấu ở dinh thự Tohsaka, tầm nhìn của Waver quay trở lại căn phòng mà với cậu đã trở thành quen thuộc --- một căn phòng nằm trên tầng hai nhà một đôi vợ chồng đã luống tuổi cậu đang tá túc nhờ như một dạng “sống kí sinh” . Những hình ảnh hiện ra trong mắt cậu vừa rồi đựơc truyền về qua “cặp mắt” của một con chuột. Sử dụng loại phép thuật đó không có gì khó với Waver.

Bước đầu tiên cho Heaven Feel của Waver tất nhiên là do thám nhà Tohsaka và Matou. Ngoài ra, trong khu rừng ở ngoại ô thành phố còn có một căn biệt thự thuộc quyền sở hữu của gia tộc Einsbern; nhưng các pháp sư của dòng họ đến từ phương Bắc vẫn chưa xuất hiện, biệt thự hiện đang trống nên chẳng cẩn theo dõi làm gì.

Chưa có động tĩnh gì nhiều từ cả hai gia tộc kia. Các Master bên ngoài đã mệt mỏi vì phải chờ đợi quá lâu và đang cân nhắc xem có nên tấn công một trong hai hay không. Đương nhiên suy nghĩ chỉ là suy nghĩ, và chẳng ai trong họ hi vọng điều đó trở thành sự thật.

“Rider, có tin mới. Một tên bại rồi.”

Không đoái hoài gì đến kẻ đang gọi mình, thậm chí chẳng thèm quay đầu lại, vị Servant khổng lồ đang nằm trên sàn nhà chỉ đáp lại bằng một tiếng “Hmf” chẳng chút nhiệt tình.

“...”

Waver cảm thấy máu huyết sôi sùng sục.

Suốt ngày, Rider chẳng làm gì cả, chỉ nằm ườn một chỗ trong phòng mình – mà cũng chẳng phải phòng của ông ta, nhưng thôi, dẹp chuyện đó sang một bên – nhưng Waver nhịn không nổi. Cậu đã bảo Rider nếu không có chuyện gì thì trở về dạng thức linh hồn, nhưng ông ta vẫn cứ ngang nhiên khoe tấm thân bồ tượng với cái lí do “như thế này thoải mái hơn”. Duy trì dạng thức hình thể của Servant sẽ khiến Master mất một lượng prana khá lớn; tuy điều đó không thành vấn đề với Waver, nhưng lãng phí như vậy thật không hay chút nào.

Càng khó tha thứ hơn là Rider đã tiêu prana của Waver để…chà, nói thật ra là, chẳng để làm gì ra hồn cả. Bất kể phản ứng của Waver, ông ấy vẫn cứ nằm chơi nhàn nhã, hờ hững đánh chén đồ ăn và xem phim thuê ngoài tiệm. Có ai tin nổi rằng đây là một Servant không?

“Này, ông có nghe tôi nói không vậy? Assassin tiêu rồi. Heaven’s Feel đã bắt đầu!”

“Hmm”

“...Này!”

Waver gào tướng lên để lôi kéo sự chú ý. Rider đành miễn cưỡng quay một nửa người lại.

“Ừ, thì sao? Vài tên chuyên ám sát bị giết thì có là gì. Một con chuột thích trốn không phải một đối thủ đáng để tâm”.

“...”

“Dù sao thì, nhóc, cái này mới gọi là thú vị đây này.”

Nói một cách hăng hái, Rider quay người về phía đoạn quảng cáo. Đài đang phát chương trình “Bản thống kê xác thực về các lực lượng không quân trên thế giới, phần 4”... Để thoả lòng đam mê quân sự hiếm thấy của mình, Rider đã xem hết tất tần tật những gì liên quan đến vấn đề đó, từ sách báo đến tranh ảnh. Đương nhiên, cung cấp cho ông ta những thứ đó là nhiệm vụ của Waver. Nếu không, Servant khổng lồ ấy sẽ vào thư viện hoặc tiệm video, một điều khiến Master của ông ấy chẳng hài lòng tí nào.

“Này, chiếc B2 đen bự chảng ấy trông được lắm. Rất tuyệt. Ta đang nghĩ đến việc mua mười chiếc như vậy đấy.”

“----- Cứ mua luôn một đất nước nào đó đi, nếu ông có số tiền đó.”

Câu trả lời của Waver phản tác dụng. Mặt mày nghiêm trọng, Rider kêu lên “Ồ, phải phải...”

“Đúng là cũng cần phải có kho tích trữ…Có lẽ ta nên cướp một thành phố giàu có cỡ Persepolis.”

Rõ ràng, Rider rất quan tâm đến việc chinh phục cả thế giới và nghiên cứu những cuộc chiến ở thế giới hiện đại. Lượng thông tin ông ta nhận được từ Chén Thánh cũng có giới hạn. Ví dụ, Rider không biết trị giá một chiếc máy bay rải bom.

“Vấn đề cấp thiết nhất hiện giờ nè, tên Cliton này là một đối thủ nguy hiểm đấy, thậm chí hắn có thể hơn cả lão Darius.”

"..."

Waver liên tục chịu đựng những cơn đau dạ dày bất thình lình từ khi cậu triệu tập gã Servant này. Đến khi đoạt được Chén Thánh rồi thì có lẽ cậu cũng bị chứng loét dạ dày mất.

Chẳng màng để tâm đến Rider nữa, Waver cố gắng suy nghĩ tích cực hơn.

Nói đi cũng phải nói lại, Assassin chết trước tiên cũng là một điều tốt với Waver. Waver hiểu rõ Servant của cậu, Rider; khả năng chiến đấu của ông ta chỉ thích hợp cho những trận cận chiến sòng phẳng. Vì vậy nên những kẻ chuyên dùng thủ đoạn hiểm độc là một mối đe doạ lớn, và Assassin là một tên điển hình trong số những kẻ đó. Servant Caster giấu mặt cũng là một vấn đề, nhưng một tên Assassin có khả năng di chuyển lén lút không ai biết vẫn là nguy hiểm nhất.

Ba class hiệp sĩ chính, Saber, Lancer, Archer và tên Berserker thường chỉ gây thêm chuyện náo loạn không cần quan tâm làm gì. Năng lực và Noble Phanstam của Rider đủ mạnh để chiến thắng họ. Vậy, chuyện cần làm tiếp theo chỉ là phải tìm ra danh tính thật sự của Caster.

‘----Vậy, Assassin bị giết như thế nào?”

Ngồi bắt chéo chân, Rider giáng đòn thế cực kỳ bất ngờ lên Waver chỉ với một câu hỏi.

“...Ơ?”

“Servant đánh bại Assassin. Cậu không thấy hắn à?”

Waver ấp úng. Cậu có thấy hắn – nhưng, thấy cái gì?

“Hẳn là Servant của Tohsaka...Tôi đoán vậy. Trông có vẻ mạnh và hung hăng lắm, ném ra hàng đống vật thể bằng vàng sáng loá. Mọi việc diễn ra chỉ trong chốc lát nên tôi không chắc...”

“Vấn đề là ở đó, ngốc ạ.”

Ngay khi câu nói ấy vang lên, một cái gì đó bật thẳng vào giữa chân mày Waver. Sự sững sờ và cơn đau bất ngờ hoàn toàn không lường trước khiến Waver gục xuống với vết bầm còn nguyên trên mặt.

Đó chính là ngón tay giữa của Rider. Ông giữ nó bằng ngón cái rồi búng ra; chỉ là một cái búng tay lên trán. Đương nhiên, Rider không hề dùng sức vào cái búng ấy. Tuy nhiên, vì đó là ngón tay của Rider - cứng như rễ thông, nên trán Waver đỏ ửng lên vì đau.

Lại dùng bạo lực. Lại một phen lộng hành quá mức. Waver đang chìm trong một hỗn hợp cảm xúc giữa sợ và tức đến phát điên, đến nỗi không nói được câu nào. Đây là lần thứ hai cậu bị chính Servant của mình đánh. Lần thứ hai trong cả cuộc đời cậu. Tức đến không thở được, Waver hết há hốc rồi lại ngậm miệng như một con cá. Phớt lờ sự bất bình của Master, Rider thở dài.

“Cậu biết đấy, nếu đánh thì ta phải chiến thắng và sống sót. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cậu chẳng chịu quan sát kỹ lưỡng?”

“...h”

Waver không trả lời. Rider nói đúng. Cậu không muốn nghe những lời như vậy từ một Servant chẳng biết làm gì ngoài nằm khểnh, ăn bánh, uống trà, xem video, và đọc sách; nhưng quả thật, đúng là có những địch thủ thực sự đáng để tâm.

“Ôi dào, dẹp hắn đi. Một gã vàng khè bóng lưỡng hay gì đi nữa, cậu ấn tượng với hắn ta ở cái chỗ nào hả?”

“Tôi, tôi đã nói...”

Làm sao cậu kịp hiểu mọi chuyện chỉ trong chưa đầy một phút?

Đòn tấn công khiến Assassin trở thành cát bụi có thể là một Noble Phanstam. Mặc dù chỉ quan sát qua mắt của familiar, cậu cũng cảm nhận được một lượng mana khổng lồ.

Nhưng số lượng vũ khí trút xuống Assassin -----

“...Này, Rider, mỗi Servant chỉ có một Noble Phantasm thôi, đúng không?”

“Thường thì vậy. Nhưng cũng có một số heroic spirit sở hữu hai hoặc ba. Như ta đây là một trường hợp như vậy.”

Đúng vậy, vào cái đêm Rider đến thế giới này, ông đã cho Waver xem một Noble Phantasm và bảo đó không phải là át chủ bài duy nhất của mình.

“Này, đừng có quan tâm nhiều đến số lượng Noble Phantasm. Cậu phải biết Noble Phantasm là công cụ giúp Heroic spirit nổi tiếng xuyên suốt lịch sử và các giai thoại, nhưng không nhất thiết phải là một thứ vũ khí; đó có thể là một kĩ năng đặc biệt hoặc một phương tiện chiến đấu vô song.”

“...Vậy thì khả năng phóng mười hay hai mươi vũ khí cùng một lúc có phải là một dạng “Noble Phantasm” không?”

“Một thanh kiếm có khả năng phân thành vô số thanh hả? Cũng có thể. Ừ, phải, đó là một dạng “Noble Phantasm”, đúng vậy.”

"..."

Nhưng, độc chiêu đánh bại Assassin không phải như vậy. Waver đã thấy qua con mắt của familiar rằng các món vũ khí phóng xuống không hoàn toàn giống nhau. Chúng không phải là đồ nhân bản; tất cả đều là những vũ khí độc nhất vô nhị.

Liệu có phải tất cả chúng đều là Noble Phantasm? Không thể nào. Số lưỡi gươm xé gió lao về phía Assassin không chỉ lác đác một hai thanh.

“Thôi nào, cũng chẳng sao, cứ tìm ra thân phận thực sự của hắn thì biết ngay thôi.”

Cười vui vẻ, Rider vỗ vỗ lên lưng Waver, lúc đó đang chìm đắm trong suy nghĩ. Sự va chạm mạnh bất ngờ khiến Waver run lên, ngạt thở. Cái vỗ lần này không khiến Waver bẽ mặt; nhưng cậu sẽ cảm kích hơn nếu có một chút gì gọi là “động viên tinh thần” trong ấy.

“Ông hăng hái quá nhỉ!?

“Chính xác. Ta đang rất hài lòng đây.”

Rider nói một cách vô tư với một nụ cười táo bạo.

“Đồ ăn và tình dục, ngủ và chiến tranh ---- cứ thoải mái bất cứ khi nào cậu muốn. Đó là cách sống của một kiếp người, nhóc ạ.”

“...”

Waver chẳng bao giờ tìm thấy niềm vui ở những thứ đó. Hơn nữa, hai trong số đó cậu chưa bao giờ trải qua.

“Được rồi, ra ngoài vui chơi một tí nào”

Duỗi người, vặn mình kêu răng rắc, vị Servant khổng lồ nói tiếp.

“Chuẩn bị đi, chúng ta sắp làm một chuyến du hành đấy”.

“Du hành...đi đâu?”

“Quan sát xung quanh, đương nhiên. Chứ còn đi đâu nữa.”

“Ông điên à!?”

Rider đứng dậy, suýt nữa là chạm trần nhà, nhìn xuống Waver đang giận dữ với một nụ cười.

“Cậu không phải là người duy nhất theo dõi điền trang nhà Tohsaka, thế có nghĩa các Master khác đều đã biết về cái chết của Assassin. Tất cả đã chán ẩn mình trong bóng tối và sẽ bắt đầu hành động cùng một lúc. Chúng ta sẽ tìm và diệt chúng.”

“Tìm và diệt...làm như dễ lắm ấy...”

“Ta là Rider. Ta chiếm ưu thế hơn hẳn những Servant *đi bộ*, hiểu không?”

Sau khi khoe mẽ, Rider tuốt thanh kiếm giắt bên thắt lưng khỏi vỏ. Nhận ra ông ta đang định gọi Noble Phantasm, Waver lật đật hét lên:

“Khoan khoan khoan! Đừng có gọi ra ở đây! Ông sẽ làm căn nhà sập mất!”

o0o



Đêm hôm ấy, không nằm ngoài dự đoán, một vị khách xuất hiện tại ngôi nhà thờ trên ngọn đồi thuộc khu ngoại ô Shinto của thành phố Fuyuki.

“Chiếu theo bản giao ước trong Heaven Feel, tôi, Kotomine Kirei, yêu cầu sự bảo hộ từ Holy Church.”

“Ta đồng ý. Tuân theo nghĩa vụ của người chịu trách nhiệm giám sát, ta, Kotomine Risei, đảm bảo sự an toàn cho cậu. Hãy bước vào.”

Đối với hai người đã sắp đặt trước mọi chuyện thì đây thực sự là một trò hề, nhưng họ không chắc chắn liệu có ai đang do thám ngoài cổng. Kotomine Risei giả vờ trịnh trọng tuyên bố vai trò giám sát viên với một vẻ mặt rầu rĩ, rồi mời con trai mình, người vừa thất bại trong cuộc chiến, vào nhà thờ.

Toạ lạc tại Fuyuki, một thành phố vốn có nhiều cư dân đến từ những miền đất khác, nơi này được viếng thăm nhiều hơn nhà thờ ở những thị trấn khác. Dù nằm ở tận phương Đông xa xôi nhưng nơi đây vẫn là trung tâm tín ngưỡng của các tín đồ Tây Âu. Tuy vậy, cái mác “thiên đường cho những tín đồ Cơ Đốc giáo” chỉ là cái vỏ bọc nguỵ trang; thực sự, căn nhà thờ này được Holy Church xây lên để phục vụ cho Heaven’s Feel. Là địa điểm linh thiêng đứng thứ ba cho sự xuất hiện của Chén Thánh, nhà thờ này sáng ngang với khu đất thuộc về những người đồng sở hữu Fuyuki, gia tộc Tohsaka.

Rõ rành rành rằng, vị cha xứ phụ trách giám sát cuộc chiến sống còn giữa các Master và các Servant, là một thành viên của Hiệp hội Thánh thể số 8. Nói cách khác, linh mục giờ đang điều hành những buổi lễ cho các tín đồ Cơ Đốc giáo mỗi ngày không ai khác ngoài Kotomine Risei.

“Mọi việc đều tiến triển, không có vấn đề gì.”

Dẫn Kirei đi vào nhà thờ, cha Risei bỏ dở công việc và gật đầu, vẻ mặt nghiêm trọng.

“Cha, những ai đang canh gác nhà thờ?”

“Không ai cả. Khu vực trung lập này đã được đảm bảo bất khả xâm phạm. Holy Church đã khuyên các Master đừng nên quấy rầy nếu không có lí do chính đáng. Trên hết, những người thua cuộc sẽ không bị truy đuổi.”

“Vậy thì chúng ta được yên tĩnh rồi.”

Ngồi xuống ghế, Kirei thở dài. Rồi tiếp lời―

“Để chắc chắn, chúng ta không nên buông lỏng đề phòng. Bất cứ lúc nào cũng có thể có kẻ do thám.”

Ông nói bằng một giọng lạnh lùng, vẻ chỉ huy, nhưng chẳng nói với ai cả. Đương nhiên ông không nói lời vừa rồi với cha mình. Linh mục Risei ngồi cạnh cũng không xem câu nói của con trai là kì quặc.

“Vậy thì, có ai đang theo dõi nơi này không?”

“Có, là tôi đây.”

Lần này, một giọng nói đáp lại câu hỏi mà Kirei đặt ra ban nãy. Là giọng phụ nữ. Trong bóng tối, ở góc căn phòng, người đó xuất hiện trong trang phục bó màu đen.

Cả Kirei lẫn Risei đều không nhướn đến một chân mày trước bộ y phục lạ lùng đó --- nhưng đó lại là kẻ lẽ ra không thể có mặt ở đây.

Áo khoác đen tuyền choàng qua thân hình ẻo lả, mặt nạ đầu lâu che giấu khuôn mặt thực sự; cách ăn mặc này là của các heroic spirit thuộc tổ chức sát thủ Hassan I Sabbah, không thể nhầm lẫn.

“Có dấu vết của bốn loại familiar khác nhau ở nơi Assassin chết. Ắt hẳn ít nhất bốn Master đã chứng kiến chuyện đó.”

“Hm....thiếu một người...”

Nheo mắt như thể đang suy nghĩ, Kirei nhìn Risei đang ngồi cạnh mình.

“ ‘Linh thần bảng’ đã công nhận sự xuất hiện của cả bảy Servant chứ ạ?”

“Phải, không nghi ngờ gì cả. Servant cuối cùng, ‘Caster’, đã được triệu hồi hai ngày trước. Như mọi khi, tên họ của các Master được giữ bí mật, nhưng chắc chắn toàn bộ Servant của lần Grail War này đã hiện hữu.”

“Con hiểu...”

Kirei sẽ hài lòng hơn nếu cả năm Master đều chứng kiến vở kịch tối nay.

“Lẽ ra tất cả các Master tham gia Heaven’s Feel đều chú ý theo dõi động tĩnh ở ba toà lâu đài của ba dòng họ lớn chứ.”

Người phụ nữ ẩn sau chiếc mặt nạ hình đầu lâu đang đứng cạnh ông ---- không ai khác ngoài Hassan I Sabbah, cất tiếng nói:

“Nếu có một kẻ bất cẩn đến độ đề phòng kém như vậy thì hắn chính là mồi ngon cho Assassin chúng tôi. Kết luận này thỏa đáng chứ?”

“Mm”.

Nếu Kotomine Kirei đã không còn Servant, Phong ấn chỉ huy của ông hẳn phải biến mất. Nhưng ba dấu ấn màu đen vẫn còn đậm nét trên tay Kirei.

Nói ngắn gọn, Servant Assassin chưa hề bị tiêu diệt. Vậy thì người phụ nữ mang mặt nạ đang tiếp chuyện hai cha con Kotomine mới chính là Hassan I Sabbah thực sự.

“Tên Assassin kia chết thật rồi, thế có đáng tiếc không?”

Người phụ nữ lắc đầu hờ hững trước câu hỏi của Kotomine.

“Hắn chỉ là một trong các Hassan bình thường không có sở trường gì cả. Mất hắn không ảnh hưởng gì nhiều đến chúng tôi. Nhưng ---

“Nhưng?”

“Tuy không ảnh hưởng nhiều, nhưng tổn thất vẫn là tổn thất. Cũng giống như mất đi một ngón tay vậy. Tôi không muốn nghĩ sự hi sinh của hắn là vô ích.”

Kirei chăm chú lắng nghe người phụ nữ bộc lộ nỗi bất bình theo một cách nhún nhường. Đương nhiên lối hành xử của cô ta chẳng có gì thái quá.

“Tất nhiên là không vô ích. Cô có thể đánh lừa các Master khác bằng cách hi sinh chỉ một ngón tay. Tất cả đều tin Assassin đã bại. Cô không nghĩ tất cả những người còn lại giờ có thể thay đổi cục diện một cách ngấm ngầm ư?”

“Ngài nói đúng.”

Người phụ nữ trong y phục đen cúi đầu cung kính.

Đinh ninh Assassin đã bị loại khỏi vòng chiến, sẽ không ai để tâm đề phòng có kẻ rình rập trong màn đêm nữa. Có ai biết được ---- rằng Servant Assassin vẫn đang kính cẩn trước Master của mình tại căn nhà thờ này.

Thậm chí đối với cuộc chiến gần như đã là một phép màu như Heaven’s Feel, đây vẫn là một tình huống đặc biệt.

Cái tên “Hassan I Sabbah” không chỉ dùng để chỉ một cá nhân duy nhất. “Hassan I Sabbah” có nghĩa là “cổ sơn nhân”, cội nguồn của từ “sát thủ”, cái tên chỉ chung cho các thủ lĩnh một tổ chức sát thủ miền Viễn Đông. Trong lịch sử đã có không ít heroic spirit mang tên Hassan. Dĩ nhiên có một nữ Hassan cũng chẳng có gì lạ.

Nhưng, theo luật lệ, mỗi kì Heaven’s Feel chỉ có một Assassin được triệu hồi. Trên lý thuyết thì một Master có thể có hai Servant bằng cách cướp Servant của Master khác, nhưng có cùng một lúc hai Assassin đồng nghĩa với luật đã bị phá.

“Dù sao đi nữa, đây là tiếng chuông báo hiệu cuộc đại chiến.”

Giọng nói hồ hởi của vị cha xứ đầy ắp niềm tin chiến thắng.

“Heaven’s Feel lần thứ tư đã bắt đầu. Ta hi vọng tấm thân tàn này sẽ được chứng kiến một phép màu.”

Không thể chia sẻ niềm phấn khích của cha mình, Kirei im lặng nhìn vào một góc khuất trong căn phòng lờ mờ sáng.